Lễ hội mùa thu tại thành phố hòa bình của Nhật Bản

Lễ hội Nagasaki Kunchi bắt nguồn từ điệu múa của 2 vũ nữ dâng lên các vị thần ở đền Suwa. 

Vào thời Edo, khi Nhật Bản thi hành chính sách bế quan tỏa cảng với các quốc gia bên ngoài, Nagasaki là thành phố duy nhất của đất nước mặt trời mọc được quyền giao thương với Trung Quốc và Hà Lan. Nhờ đó, thành phố cảng biển đã sản sinh ra các lễ hội giao thoa văn hóa giữa phương Tây và nét truyền thống. Nagasaki Kunchi là một trong những lễ hội mang điểm nhấn đặc sắc đó.

Những thương thuyền nước ngoài được tái hiện trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: ANA.

Những thương thuyền nước ngoài được tái hiện trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: ANA.

Các lễ hội vào mùa thu được tổ chức trong ngày 9 sẽ được gọi là O-Kunichi. Mùa thu cũng là mùa nông dân dâng các sản vật ngon nhất của mình cho thần linh để tỏ lòng biết ơn. Vật phẩm dâng cho thần linh được gọi là “Kunichi” đồng âm với cách gọi ngày 9. Từ “Kunichi” trong lễ hội Nagasaki Kunchi được cho là bắt nguồn từ đó.

Lễ hội tổ chức từ ngày 7 tới 9 của tháng 10 hàng năm. Hoạt động đặc sắc nhất là các điệu múa được giao cho khu phố đảm nhận. Để xem lại cùng một điệu múa du khách phải chờ đến 7 năm sau vì chúng được thay đổi theo từng năm. Hoạt động này bắt nguồn từ việc dâng điệu múa lên thần linh tại đền thờ Suwa của 2 vũ nữ.  

Các điệu múa trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: 

Các điệu múa trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: Tsunagu Japan.

Khi đến với lễ hội, du khách sẽ chứng kiến hoạt động diễu hành, rước kiệu thần đến Otabi-sou (rước thần xuống núi). Ngoài các điệu múa truyền thống, du khách không thể bỏ qua các điệu tái hiện lịch sử giao thương của Nhật Bản với Trung Quốc và Hà Lan.

Với du khách Việt Nam, Go-shuinsen là điệu múa không thể bỏ qua khi đến với lễ hội Nagasaki Kunchi. Điệu múa tái hiện cảnh thương nhân Sotaro Araki đưa công chúa Ngọc Hoa về quê hương. Môi lương duyên này được người Nhật trân trọng và công chúa cũng được người Nhật gọi với cái tên trìu mến là Anio – san.

Đến Nagasaki, du khách có thể ghé thăm những điểm du lịch nổi tiếng như đài tưởng niệm hòa bình, quần đảo Kujuku, cao nguyên Shirakine…

Diễu hành rước kiệu thần trong ngày lễ Nagasaki Kunchi. Ảnh: Nozomi Edu.

Diễu hành rước kiệu thần trong ngày lễ Nagasaki Kunchi. Ảnh: Nozomi Edu.

Japanese tribe worshiping nature

As the first ethnic group living in Hokkaido, the Ainu people still retain their own cultural identities from ancient times to modern life.

The Ainu people have lived in Hokkaido since ancient times. They immerse themselves in nature, always feel grateful for what nature offers, thereby forming a separate culinary culture full of identity.

They assumed that the food was given by the gods, should be grateful for that and only harvested to a sufficient extent.

Ohaw món ăn truyền thống của người Ainu được chế biến từ rượu gạo, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, hành lá, các loại rong biển...

Ohaw traditional Ainu dishes are made from rice wine, potatoes, carrots, white radish, scallions, seaweed …

Ohaw is a traditional dish of the Ainu people made from rice wine, potatoes, carrots, white radish, scallions, seaweed … Photo provided by Hokkaido province.

The Ainu people first inhabited a large area from the north-eastern part of Japan to Hokkaido (Ezogashima island), Sakhalin (Karafuto), and Chishima Islands between the 17th and 19th centuries. called “Ainu Moshiri” meaning “the land where people live”.

Ainu culture is still inherited to this day. Visitors can find such culture everywhere in Hokkaido. Easy to find are the restaurants to enjoy the unique culinary culture of the Ainu people.

Miss Teen Phương Dung quảng bá cho văn hoá Ainu tại Lễ hội Việt  Nhật ở Công viên 23-9 ngày 19/1. Ảnh: Trọng Lực.

Miss Teen Phuong Dung promotes Ainu culture at the Vietnam-Japan Festival in the Park September 23, January 19. Photo: Gravity.

Latest, within the framework of the 6th Vietnam – Japan Festival (January 19 – 20), at booth B8, zone B, 23/9 Park, District 1 (HCMC) has recreated the space of the office. Ainu chemistry. Here, visitors learn about traditional Ainu culture through exhibits from utensils, costumes with monyou patterns meaning exorcism, see the instruction on wearing ruunpe costumes …

Viewers were very surprised with precious handicrafts such as a tray with unique wood carving art; socks, gloves with traditional pattern and hand embroidery …

Vũ điệu Ainu cổ.

The ancient Ainu dance.

The ancient Ainu dance. Photo provided by Hokkaido prefecture.

Introducing Ainu culture at this Vietnam – Japan Festival, Hokkaido prefecture wants Vietnamese people to know more about Ainu culture and traditions. Expected in April 2020, Ainu National Park and Museum (UPOPOY) will open in Shiraoi, Hokkaido. UPOPOY’s grand opening will take place right before the Tokyo Summer Olympics and the Paralympic Games.

UPOPOY is the first national museum of Ainu culture in Japan. Hokkaido is expected to be a new destination for provincial tourism, and as a place to inherit and develop the Ainu culture.

Bộ tộc tôn sùng thiên nhiên ở Nhật Bản

Là dân tộc đầu tiên sinh sống tại Hokkaido, người Ainu vẫn giữ những bản sắc văn hóa riêng của mình từ xưa đến cuộc sống hiện đại.

Người Ainu từ xa xưa đã sinh sống tại Hokkaido. Họ hòa mình vào thiên nhiên, luôn cảm thấy biết ơn vì những gì thiên nhiên ban tặng, từ đó hình thành nền văn hóa ẩm thực riêng biệt đầy bản sắc.

Họ cho rằng thức ăn do các vị thần ban cho, nên biết ơn vì điều đó và chỉ thu hoạch ở mức độ vừa đủ dùng.

Ohaw món ăn truyền thống của người Ainu được chế biến từ rượu gạo, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, hành lá, các loại rong biển...

Ohaw là món ăn truyền thống của người Ainu được chế biến từ rượu gạo, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, hành lá, các loại rong biển… Ảnh do tỉnh Hokkaido cung cấp.

Người Ainu sinh sống đầu tiên ở vùng rộng lớn từ phía bắc khu vực Đông Bắc Nhật Bản cho đến Hokkaido (đảo Ezogashima), Sakhalin (Karafuto), quần đảo Chishima khoảng thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Riêng quần đảo Chishima còn được gọi là “Ainu Moshiri” với ý nghĩa “vùng đất con người sinh sống”.

Nền văn hóa Ainu vẫn được tiếp tục kế thừa cho đến ngày nay. Du khách có thể bắt gặp nền văn hóa ấy ở khắp nơi tại Hokkaido. Dễ dàng tìm được là những nhà hàng để thưởng thức văn hóa ẩm thực độc đáo của người Ainu.

Miss Teen Phương Dung quảng bá cho văn hoá Ainu tại Lễ hội Việt  Nhật ở Công viên 23-9 ngày 19/1. Ảnh: Trọng Lực.

Miss Teen Phương Dung quảng bá cho văn hoá Ainu tại Lễ hội Việt – Nhật ở công viên 23/9 ngày 19/1. Ảnh: Trọng Lực.

Mới nhất, trong khuôn khổ Lễ hội Việt – Nhật lần thứ 6 (ngày 19 – 20/1), tại gian hàng B8, khu B, Công viên 23/9, quận 1 (TP HCM) đã tái hiện không gian của văn hoá Ainu. Ở đây, khách tham quan được biết về văn hoá truyền thống Ainu qua các hiện vật được trưng bày từ đồ dùng, trang phục với hoa văn monyou mang ý nghĩa trừ tà, xem hướng dẫn mặc trang phục ruunpe…

Người xem rất bất ngờ với những món đồ thủ công mỹ nghệ quý giá như cái mâm với nghệ thuật khắc gỗ độc đáo; tất, găng tay với hoa văn và thêu tay truyền thống…

Vũ điệu Ainu cổ.

Vũ điệu Ainu cổ. Ảnh do tỉnh Hokkaido cung cấp.

Giới thiệu văn hoá Ainu trong Lễ hội Việt – Nhật lần này, tỉnh Hokkaido mong muốn người Việt Nam biết nhiều hơn về văn hoá, truyền thống Ainu. Dự kiến vào tháng 4/2020, Công viên và Bảo tàng quốc gia Ainu (National Ainu Museum and Park – UPOPOY) sẽ mở tại Shiraoi, Hokkaido. Sự kiện khai trương UPOPOY sẽ diễn ra ngay trước thềm Thế vận hội Olympic mùa hè và Thế vận hội dành cho người khuyết tật (Paralympic) Tokyo.

UPOPOY là bảo tàng quốc gia đầu tiên về văn hóa Ainu tại Nhật Bản. Tỉnh Hokkaido kỳ vọng đây sẽ là một điểm đến mới của du lịch tỉnh, và là nơi kế thừa và phát triển nền văn hoá Ainu.

Smart robots can teach sutras in Japan

The robot has a human-like face and some movement, with the ability to speak to share Buddhist teachings.

According to Japantimes, a robot called Mindar, which can simply explain the Buddha’s teachings, was introduced at Kodaiji Temple in Kyoto on February 23. Mindar gave a speech on the Bat Nha Tam Kinh in Japanese on the background music with English and Chinese subtitles being projected on the wall.

Robot Mindar. Ảnh Sohu

Robot Mindar. Photo Sohu

Smart Robot Mindar. Photo: Sohu

“We want more people to come see the robot to think about the nature of Buddhism,” said Tensho Goto, the temple’s manager, expressing his hope that robots will help those who have no ties to Buddhism. pay more attention to religion.

Mindar is about 195 cm tall and weighs 60 kg, made by the company A-Lab, based in Tokyo. The robot is made mainly of aluminum, the face and hands are made of silicone. The upper part of its neck, arms and body are rotatable. The left eye is equipped with a camera. Although the robot has a beautiful face and looks like a human, its body still reveals mechanical details. According to Mr. Goto, this has its own religious implications as well as stimulates the imagination of visitors.

The cost of robot research and development is about 100 million yen (equivalent to 20 billion dong). In the future, the robot will be upgraded to have the ability to recognize faces and movement, as well as perform more complex actions. Mindar will be shown to the public from March 8.

Robot thông minh có thể giảng kinh ở Nhật Bản

Người máy có khuôn mặt và một số cử động giống người, với khả năng diễn thuyết để chia sẻ giáo lý đạo Phật.

Theo Japantimes, robot có tên Mindar, có thể giải thích những lời dạy của Đức Phật một cách đơn giản, đã được giới thiệu tại chùa Kodaiji ở Kyoto ngày 23/2. Mindar đã có bài phát biểu về Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Nhật trên nền nhạc với phụ đề tiếng Anh và tiếng Trung được chiếu kèm theo trên tường.

Robot Mindar. Ảnh Sohu

Robot thông minh Mindar. Ảnh: Sohu

“Chúng tôi muốn nhiều người đến xem robot để suy nghĩ về bản chất của Phật giáo”, ông Tensho Goto, quản lý ngôi đền nói và bày tỏ hy vọng robot sẽ giúp những người không có mối liên hệ nào với Phật giáo có thể dành sự quan tâm hơn đến tôn giáo.

Mindar cao khoảng 195 cm và nặng 60 kg, được chế tạo bởi công ty A-Lab, có trụ sở tại Tokyo. Robot được làm chủ yếu bằng nhôm, riêng mặt và tay làm bằng silicone. Phần trên của cổ, cánh tay và cơ thể của nó có thể xoay được. Mắt trái  được trang bị một camera. Tuy robot có khuôn mặt đẹp và trông giống con người, cơ thể của nó vẫn để lộ các chi tiết máy móc. Theo ông Goto, điều này có hàm ý riêng mang ý nghĩa tôn giáo cũng như kích thích trí tưởng tượng của du khách đến xem.

Chi phí nghiên cứu và phát triển robot khoảng 100 triệu yên (tương đương 20 tỷ đồng). Trong tương lai, robot này sẽ được nâng cấp để có thêm khả năng nhận diện khuôn mặt và chuyển động, cũng như thực hiện các hành động phức tạp hơn. Mindar sẽ được trình chiếu trước công chúng từ ngày 8/3.

Japanese incense Shoyeido

The product is made from herbal ingredients and can be used in many places.

In the early 18th century, Mr. Rokubei Moritsune Hata – the “father” of the Shoyeido brand, began to incorporate the techniques of making incense learned from working at the Imperial Palace Kyoto. Finally, he came up with a scent that people enjoy not just limited to royalty. Twelve generations later, the Hata family continues to create different scents. Among them, Shoyeido is considered to be one of the most natural and high quality scents.

huong-shoyeido-cua-nhat-ban

huong-shoyeido-crab-nhat-ban

Some typical products distributed in the Vietnamese market are rose, lavender, ocean, vanilla, Japanese sencha …

Shoyeido’s blending process is an art. Advanced artisans have drawn the secrets of the centuries to create fragrant masterpieces. They carefully process quality, calculate the balance and proportions of each carefully selected natural ingredient. The slightest difference in the quantity or quality of any ingredient can greatly affect the results. Only the finest raw materials are used. The delicate scent awakens all senses to enjoy and the Japanese call that art mon-koh or “scent”.

huong-shoyeido-cua-nhat-ban-1

huong-shoyeido-crab-nhat-ban-1

A traditional pilgrimage ceremony in Japan.

Shoyeido products are one of the favorite scents of many temples in Japan thanks to their blending formula according to modern natural solutions to create a relaxing space in the home. Whether it is at work, yoga or meditation, or simply in a bathroom or spa, the pure scent of Shoyeido makes the atmosphere more pleasant.

For the health of the consumer and for the sake of relaxation in mind, Shoyeido is made from herbal ingredients. Shoyeido is sold in health food stores, souvenir shops, bookstores, vitamin stores, pharmacies, spas and salons.

Hương Shoyeido của Nhật Bản

Sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu cây cỏ thảo dược và có thể sử dụng ở nhiều nơi.

Vào đầu thế kỷ 18, ông Rokubei Moritsune Hata – “cha đẻ” của thương hiệu Shoyeido, bắt đầu kết hợp các kỹ thuật làm hương học được khi làm việc tại Cung điện Hoàng gia Kyoto. Cuối cùng, ông đã đưa ra mùi hương mà người thưởng thức không chỉ giới hạn trong hoàng gia. 12 thế hệ sau, gia đình Hata tiếp tục tạo ra những mùi hương khác nhau. Trong đó, hương Shoyeido được coi là một trong những loại hương chất lượng cao và tự nhiên nhất.

huong-shoyeido-cua-nhat-ban

Một số sản phẩm tiêu biểu được phân phối tại thị trường Việt Nam là hương hoa hồng, oải hương, đại dương, vanilla, hương sencha Nhật…

Quá trình pha trộn của Shoyeido là một nghệ thuật. Các nghệ nhân trình độ cao đã rút ra những bí quyết từ hàng thế kỷ để tạo nên những kiệt tác hương thơm. Họ cẩn thận xử lý chất lượng, tính toán sự cân bằng và tỷ lệ của từng nguyên liệu tự nhiên được lựa chọn cẩn thận. Chỉ một sự khác biệt nhỏ nhất về số lượng hoặc chất lượng của bất cứ thành phần nào đều có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả. Chỉ những nguyên liệu thô tốt nhất mới được sử dụng. Mùi thơm tinh tế giúp thức tỉnh tất cả giác quan khi thưởng thức và người Nhật gọi nghệ thuật đó là mon-koh hay “nghe hương”.

huong-shoyeido-cua-nhat-ban-1

Lễ hương đạo truyền thống tại Nhật Bản.

Sản phẩm của Shoyeido là một trong những hương thơm ưa thích của nhiều ngôi chùa ở Nhật Bản nhờ công thức pha trộn theo giải pháp tự nhiên hiện đại giúp tạo ra không gian thư giãn trong nhà. Dù đó là nơi làm việc, tập yoga hay thiền định, hoặc đơn giản trong phòng tắm hay spa thì hương thơm tinh khiết của Shoyeido cũng giúp bầu không khí trở nên dễ chịu hơn.

Vì sức khỏe của nười tiêu dùng và mục đích mang lại sự thư thái trong tâm hồn, hương Shoyeido được sản xuất từ nguyên liệu chỉ là cây cỏ thảo dược. Hương Shoyeido được bán trong các cửa hàng thực phẩm bảo vệ sức khỏe, lưu niệm, hiệu sách, cửa hàng bán vitamin, hiệu thuốc, spa và salon.

Activities to try out at the famous Japanese suspension bridge

In addition to sightseeing, visitors can experience the thrilling bungee jumping game and watch the carp chess festival at Ryujin Bridge.

Ryujin opened in 1994 at Okukuji Nature Park, Ibaraki Prefecture, Japan with a length of 375m, becoming one of the largest suspension bridges in Japan. The bridge can handle 3,500 pedestrians. This place often takes place many interesting activities.

Bungee jump

Ryujin Bridge is one of the tallest bungee jumping spots in Japan with a height of 100m, below is a view of the cliff forest. This extreme sport attracts thousands of visitors to experience here every year.

Du khách phải ký cam kết không có tiền sử bệnh tim mạch trước khi tham gia trò chơi. Ảnh: Ibaraki Guide.

Visitors must sign a no history of cardiovascular disease pledge prior to joining the game. Photo: Ibaraki Guide.

In order to jump bungee, visitors must register early online. The price for the first jump is 16,000 yen (equivalent to 3.4 million dong) and 7,000 yen for the second time. To join the game you must be 15 years old and have a body weight of 40 to 105 kg. Players under 20 years of age need to have a signed guardian of health. If you don’t participate in bungee jumping, you can enjoy a panoramic view of the Ryujin River from the bridge.

Koinobori carp festival

Koinobori carp festival takes place from late April to mid-May every year. The event is held with the meaning of praying for good luck and health. At this time, thousands of carp flags made of paper of all colors will be hung at Ryujin Bridge. While participating in the festival, visitors can enjoy traditional Japanese dishes such as mochi cakes and carp-shaped cakes.

Hàng nghìn cá chép giấy được treo ở cây cầu. Ảnh: Living In Japan.

Thousands of paper carp are hung from the bridge. Photo: Living In Japan.

After visiting the bridge, visitors can enjoy snacks near this area such as squid cake (takoyaki) and many other snacks for an average price of 100 yen (equivalent to 21,000 VND).

To get to Okukuji Natural Park, you can take the JR Joban Line fast train for about an hour, from Ueno Station to Mito Station. Then take the JR Suigun Line train for more than 80 minutes from Mito Station to Fukuroda or Hitachi Daigo.

In addition, when coming to Ibaraki Prefecture, visitors can visit famous tourist attractions such as Fukuroda Falls, Ooarai Isosaki Temple and Hitachi seaside Park.

Những hoạt động nên thử ở cầu treo nổi tiếng Nhật Bản

Ngoài ngắm cảnh, du khách có thể trải nghiệm trò chơi cảm giác mạnh nhảy Bungee và xem lễ hội cờ cá chép ở cầu Ryujin.

Ryujin khánh thành năm 1994 tại công viên thiên nhiên Okukuji, tỉnh Ibaraki, Nhật Bản với chiều dài 375m, trở thành một trong những câu cầu treo lớn nhất Nhật Bản. Cây cầu có thể chịu được 3.500 người đi bộ. Nơi đây thường xuyên diễn ra nhiều hoạt động thú vị.

Nhảy bungee

Cầu Ryujin là một trong những điểm nhảy bungee cao nhất Nhật Bản với độ cao 100m, bên dưới là khung cảnh khu rừng vách núi. Bộ môn thể thao mạo hiểm này thu hút hàng nghìn du khách tới đây trải nghiệm mỗi năm.

Du khách phải ký cam kết không có tiền sử bệnh tim mạch trước khi tham gia trò chơi. Ảnh: Ibaraki Guide.

Du khách phải ký cam kết không có tiền sử bệnh tim mạch trước khi tham gia trò chơi. Ảnh: Ibaraki Guide.

Để nhảy bungee, du khách phải đăng ký từ sớm qua mạng. Giá cho bước nhảy lần đầu là 16.000 yên (tương đương 3.4 triệu đồng) và 7.000 yên với lần thứ 2. Để tham gia trò chơi du khách phải đủ 15 tuổi và có trọng lượng cơ thể từ 40 đến 105 kg. Người chơi dưới 20 tuổi cần có người giám hộ ký xác nhận về sức khỏe. Nếu không tham gia nhảy bungee, du khách có thể ngắm toàn cảnh con sông Ryujin từ trên cây cầu.

Lễ hội cá chép Koinobori

Lễ hội cá chép Koinobori diễn ra từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 5 hàng năm. Sự kiện được tổ chức với ý nghĩa cầu mong may mắn, khỏe mạnh. Vào thời điểm này, hàng nghìn chiếc cờ cá chép được làm bằng giấy với đủ màu sắc sẽ được treo tại cầu Ryujin. Khi tham gia lễ hội, du khách có thể thưởng thức các món ăn truyền thống của Nhật Bản như bánh mochi và các loại bánh hình cá chép.

Hàng nghìn cá chép giấy được treo ở cây cầu. Ảnh: Living In Japan.

Hàng nghìn cá chép giấy được treo ở cây cầu. Ảnh: Living In Japan.

Sau khi đã tham quan cầu, du khách có thể thưởng thức các món ăn vặt ở gần khu vực này như bánh mực (takoyaki) và nhiều món ăn vặt khác với giá trung bình là 100 yên (tương đương 21.000 đồng).

Để đến công viên thiên Okukuji, bạn có thể dùng chuyến tàu lửa nhanh JR Joban Line trong khoảng một giờ, từ ga Ueno cho tới ga Mito. Sau đó bắt tiếp chuyến tàu JR Suigun Line trong khoảng hơn 80 phút từ ga Mito tới Fukuroda hoặc Hitachi Daigo. 

Ngoài ra khi đến tỉnh Ibaraki, du khách có thể tham quan các điểm du lịch nổi tiếng như thác Fukuroda, đền Ooarai Isosaki và công viên Hitachi seaside.

Japanese universities do not recruit professors to smoke

The new policy under the “Non-Smoking Roadmap”, enacted by Nagasaki University last November, is aimed at banning the introduction of cigarettes or lighters into the school.

On April 19, Nagasaki University (Nagasaki Prefecture, Japan) announced that it would not recruit smokers to all teaching positions, including visiting professors. This is seen as the pioneer move by the public school in the fight against tobacco.

However, university leaders say the rule will be flexibly applied, possibly exempting candidates who commit to quit after being admitted to the school.

Hiệu trưởng Đại học Nagasaki, Shigeru Kono, tuyên bố chính sách không tuyển người hút thuốc tại buổi họp báo ngày 19/4 ở Nagasaki. Ảnh: Rui Morimoto

The Rector of Nagasaki University, Shigeru Kono, announced the policy of not recruiting smokers at the April 19 press conference in Nagasaki. Photo: Rui Morimoto

The new Nagasaki University policy reflects the trend of smoking ban in all public spaces in Japan, including restaurants and bars, as Tokyo is about to host the 2020 Summer Olympics.

“The mission of the university is to nurture the human resources. We feel we need to encourage people to say no to tobacco, as some companies have started to introduce no smoking rules,” said Shigeru Kono, shared university rectors.

An official from the Japanese Ministry of Health, Labor and Welfare admitted “had never heard of a similar policy being applied at a public university”.

The above policy belongs to the university’s “Non-Smoking Roadmap” issued last November, which plans to gradually eliminate 10 smoking areas on campus.

From next August, the ban on smoking by faculty members and all other staff at the school will take effect. By April of the following year, no one, including students, was allowed to bring cigarettes or lighters into the school.

Currently, the number of smokers accounts for 8% of the staff of Nagasaki University. A psychiatric specialist will be invited to school in May to advise people who have difficulty quitting smoking.