Nara Prefecture’s Flower Festival takes place for 10 days with tens of thousands of candles lit throughout popular tourist attractions.
The annual Nara Flower Festival is also a typical cultural feature in the ancient capital. The festival reappears the tradition of visiting ancestors ‘graves, lighting lanterns on family altars to welcome ancestors’ souls to visit on Obon, expressing the most clearly about Japanese culture as well as customs. .
Starting in 1999, the Nara Flower Festival was officially held. During the festival, 20,000 candles will be lit throughout the 10 days until the Obon. The candlelight spots are Todaiji Temple, Kasuga Taisha Shrine and Nara Park.
The Nara Flower Festival has been officially held since 1999. During the festival, 20,000 candles are lit for 10 days at Todaiji Temple, Kasuga Taisha Shrine and Nara Park. Photo: ABC.
Photo: The Riotact. Lights will be lit up from sunset. A special feature is that the lanterns in the festival are made of hard candles to form the first part. The Japanese believe that if a candle burns and produces a flower, good luck will come.
Photo: The-riotact. For the success of the festival, more than 400 volunteers participated in making flower lanterns and cleaning them up after the festival season. Throughout the festival, you can also participate in activities such as calligraphy, origami, lanterns, martial arts performances …
More than 400 volunteers participated in making flower lanterns and cleaning them up after the festive season. Throughout the event, you can also participate in activities such as calligraphy, origami, lanterns, martial arts performances … Photo: Boutique Japan.
Nara’s special feature compared to other cities in Japan lies not in the bustle and color but in the tranquility with many ancient cultural architectural monuments of Japan still preserved and developed. . Nara is one of the cities in Japan with many monuments recognized by UNESCO as world cultural heritage.
Nara was the capital of Japan in 710 with the name Heijo-kyo. Heijo-kyo is the most beautiful and famous in the country of the rising sun in the period before 784 – also known as the Nara period. Photo: Boutique Japan.
Nara is more special than other cities in Japan because of its tranquility, many ancient cultural and architectural relics are preserved and developed. This is one of the cities in Japan with many monuments recognized by UNESCO as world cultural heritage. Photo: Visit Nara.
Lễ hội hoa đăng của tỉnh Nara sẽ diễn ra trong 10 ngày với hàng chục nghìn ngọn nến được thắp sáng khắp các điểm du lịch nổi tiếng.
Lễ hội hoa đăng được tổ chức vào tháng 8 hàng năm là nét văn hóa đặc trưng ở cố đô Nara, Nhật Bản. Lễ hội tái hiện lại truyền thống viếng mộ, thắp đèn lồng, đón linh hồn tổ tiên về thăm vào dịp lễ Obon. Ảnh: The-riotact.
Lễ hội hoa đăng Nara chính thức được tổ chức từ năm 1999. Trong lễ hội, 20.000 ngọn nến được thắp sáng xuyên suốt 10 ngày, tại chùa Todaiji, đền Kasuga Taisha và công viên Nara. Ảnh: ABC.
Đèn sẽ được thắp sáng từ lúc hoàng hôn. Một điểm đặc biệt là các ngọn hoa đăng trong lễ hội được làm từ phần đầu của những ngọn nến cứng. Người Nhật cho rằng nếu ngọn nến cháy và tạo ra hoa đăng thì điều may sẽ đến. Ảnh: The Riotact.
Hơn 400 tình nguyện viên đã tham gia làm đèn hoa đăng và dọn dẹp chúng sau mùa lễ hội. Xuyên suốt sự kiện, bạn cũng có thể tham gia các hoạt động như viết thư pháp, làm origami, đèn lồng, trình diễn võ thuật… Ảnh: Boutique Japan.
Nara là thủ đô của Nhật Bản vào năm 710 với tên gọi là Heijo-kyo. Heijo-kyo đẹp và nổi tiếng nhất đất nước Mặt trời mọc trong thời kỳ trước năm 784 – hay còn gọi thời kỳ Nara. Ảnh: Boutique Japan.
Nara đặc biệt hơn những thành phố khác ở Nhật bởi sự yên bình, nhiều di tích kiến trúc văn hóa cổ đại còn được lưu giữ và phát triển. Đây là một trong những thành phố tại Nhật có nhiều di tích được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Ảnh: Visit Nara.
Món Natto nhiều dinh dưỡng là một trong những bí quyết sống lâu của người Nhật Bản.
Natto là món ăn truyền thống của Nhật Bản được làm từ hạt đậu tương lên men. Món ăn này có màu nâu nhạt, mùi khó ngửi và nhiều chất dính. Mặc dù có mùi vị “khủng khiếp”, Natto vẫn có thể gây nghiện nếu thực khách ăn thử một lần.
Món đậu nành lên men, sau khi được chế biến hoàn tất có mùi thum thủm khó ngửi. Ảnh: Toyokeizai.
Nguồn gốc của món này được người Nhật truyền miệng qua nhiều đời với nhiều phiên bản khác nhau. Có truyền thuyết kể lại rằng, món ăn này vô tình được tạo ra từ một người lính trong doanh trại của tướng Yoshiie. Khi bị quân địch tập kích, anh ta đã giấu đậu nành luộc cho ngựa vào những túi rơm và không mở trong suốt mấy ngày liền. Khi phát hiện ra thì món ăn đã lên men và có mùi kỳ lạ. Nếm thử thấy ngon, người lính bèn trình món ăn lên tướng Yoshiie. Mùi vị của đậu nành lên men lập tức hấp dẫn ông, vì vậy món ăn dần trở nên phổ biến cho đến ngày nay.
Theo một truyền thuyết khác, Natto xuất hiện trong thời Edo (1603-1868) và cách chế biến đã thay đổi nhiều trong thời Taisho (1912-1926). Khi đó, những nhà nghiên cứu tìm đã tìm được cách sử dụng vi khuẩn làm món Natto mà không cần đến rơm.
Lên men đậu nành bằng cách ủ trong rơm trong vòng 1-2 ngày. Ảnh: Question Japan.
Món ăn này được hầu hết người dân Nhật Bản ưa thích, đặc biệt là vùng Kanto và Tohoku. Theo các nhà khoa học, có rất nhiều thành phần dinh dưỡng trong món đậu nành lên men này. Đó là các acid amin, enzym Nattokinase, vitamin K2, những loại chất giúp tăng tuổi thọ con người.
Để làm món ăn này, sau khi ngâm hạt đậu nành nhỏ trong vòng một ngày, người Nhật đem luộc chín rồi cho lên men. Theo cách cổ truyền, đậu được ủ trong các túi rơm. Hiện nay, người Nhật sử dụng men kosokin để ủ đậu nành trong khoảng 24 giờ ở nhiệt độ 40 °C.
Người Nhật thường ăn Natto cùng với cơm trắng. Ảnh: Japanesecooking101.
Sau khi được lên men, đậu Natto sẵn sàng có mặt trên các mâm cơm gia đình Nhật. Món ăn này thường được ăn kèm với cơm, hoặc có thể nấu thành súp, làm nhân sushi cuộn và nước dùng của mì Soba. Ở các cửa hàng tiện lợi, bạn cũng có thể tìm thấy Natto sấy khô như một món ăn vặt của người Nhật.
Ngoài Natto, Du khách sẽ được khám phá rất nhiều địa điểm đẹp và nhiều nét độc đáo trong văn hóa của người Nhật. Đặc biệt ở các vùng miền như thủ đô Tokyo, tỉnh Ibaraki, Kanagawa và Saitama.
Okunoshima is known as “rabbit island”, because there are about 300 rabbits living, attracting hundreds of thousands of visitors each year.
Okunoshima islet in Takehara City, Hiroshima Prefecture, Japan. This place is compared by many tourists as “a cute zoo” because there are about 300 wild rabbits. Because of the above feature, the island also has another name is Usagi Jami (Rabbit Island). Many people come here to pray for the convenience of giving birth because the rabbit is considered a symbol of many children according to Japanese culture.
The rabbits here often follow the guests. Every year, Rabbit Island welcomes more than 100,000 visitors on average. Photo: All that interesting.
Up to now, the origin of the rabbits on the island is still unknown. However, the most widely accepted theory is that in 1971, a group of students on a school trip brought some rabbits. Gradually, the number of rabbits increased and spread to the island.
The rabbits on the island are very brave and love to approach guests to beg. Even without someone looking after them, the rabbits can live comfortably thanks to the food coming from the visitors.
Visitors should buy rabbit food at the supermarket before going on the island. You can play and pick up rabbits, but you cannot bring dogs or cats or take rabbits to the mainland … because this is a government regulation.
Visitors can feed rabbits with vegetables, carrots … bought in supermarkets before going on the island. Photo: Twitter.
In addition to buying rabbit food packages, playing with them, you can visit the Poison Gas Museum to learn more about the island’s history, walk along the coastal trails, watch the mountains or take a bath sea. On the island there are cafes to serve customers, but the number is not much. Here, people sell small souvenirs to buy as gifts. The island is small, so it takes about 1.5 hours for visitors to visit and explore.
Tourists note should not cuddle rabbits, even if allowed. They are all wild rabbits, not vaccinated. You should not feed your rabbits along the way, as they may be engrossed in eating and forgetting to avoid approaching cars. Pay attention to food for rabbits so they are not overdue or damaged … Guests should not place food near the cave to avoid attracting other predators, check the underbody before starting, because rabbits are permanent hide there.
Before going back, fill the pan with water around the island because water is scarce. Rabbits living on a hillside can live off spring water, but the animals living around hotels and cafes don’t have much water to drink.
Rabbit Island is 15 minutes by ferry from Tadanoumi port, and ferries are usually 30-45 minutes apart.
Okunoshima được mệnh danh là “đảo thỏ”, bởi có khoảng 300 con thỏ đang sinh sống, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách tham quan mỗi năm.
Đảo nhỏ Okunoshima thuộc thành phố Takehara, tỉnh Hiroshima, Nhật Bản. Nơi đây được nhiều du khách so sánh như “một vườn thú dễ thương” vì có khoảng 300 con thỏ hoang dã sinh sống. Vì đặc điểm trên, đảo còn có tên gọi khác là Usagi Jami (Đảo Thỏ). Nhiều người tới đây cầu may để thuận lợi sinh nở vì thỏ được xem là biểu tượng của đông con theo văn hóa Nhật Bản.
Những con thỏ ở đây thường lẽo đẽo đi theo khách. Mỗi năm, trung bình đảo đón hơn 100.000 khách. Ảnh: All that interesting.
Đến nay, nguồn gốc của những con thỏ trên đảo vẫn còn là ẩn số. Tuy nhiên giả thuyết được nhiều người công nhận nhất là vào năm 1971, một nhóm học sinh trong chuyến đi cùng trường tới đây đã đem theo vài con thỏ. Dần dần, số thỏ tăng lên và lan ra sống khắp đảo.
Những con thỏ trên đảo đều rất dạn người và thích lại gần khách để xin ăn. Dù không cần người chăm sóc, các con thỏ vẫn có thể sống thoải mái nhờ vào nguồn thức ăn đến từ khách tham quan.
Du khách nên mua sẵn đồ ăn cho thỏ ở siêu thị trước khi lên đảo. Bạn có thể chơi đùa, bế các con thỏ nhưng không được mang theo chó, mèo hay bắt thỏ mang về đất liền… vì đây là quy định của chính phủ.
Du khách có thể cho thỏ ăn rau, cà rốt… mua trong các siêu thị trước khi lên đảo. Ảnh: Twitter.
Ngoài việc mua những gói thức ăn cho thỏ, chơi đùa cùng chúng, bạn có thể ghé thăm Bảo tàng Khí độc để tìm hiểu thêm về lịch sử của hòn đảo, đi dọc trên những con đường mòn ven biển, ngắm núi rừng hoặc tắm biển. Trên đảo có quán cà phê phục vụ khách, nhưng số lượng không nhiều. Tại đây, người dân bán các món đồ lưu niệm nhỏ để mua về làm quà. Đảo nhỏ nên du khách mất khoảng 1,5 tiếng là có thể tham quan, khám phá hết.
Du khách lưu ý không nên ôm ấp thỏ, dù được phép. Chúng đều là thỏ hoang, không được tiêm phòng. Bạn không nên cho thỏ ăn dọc đường, vì chúng có thể mải ăn mà quên tránh những chiếc xe du lịch đang chạy đến. Đồ ăn cho thỏ chú ý để không bị quá hạn, hư hỏng… Khách không nên đặt thức ăn gần hang để tránh thu hút các động vật săn mồi khác, nên kiểm tra gầm xe trước khi khởi động, vì thỏ thường trú ẩn ở đó.
Trước khi về, hãy đổ đầy chảo nước đặt quanh đảo vì nước ở đây khan hiếm. Thỏ sống trên sườn đồi có thể sống nhờ nguồn nước suối, nhưng những con vật sống xung quanh khách sạn, quán cà phê thì không có nhiều nguồn nước để uống.
Đảo thỏ cách cảng Tadanoumi 15 phút đi phà, các chuyến phà thường cách nhau 30-45 phút.
After 10 years, the Japanese have improved their height from being on par with Vietnam to the top of Asia.
The average height of Vietnamese youth is only 164.4cm for men, 153.4cm for women, 13.1cm and 10.7cm lower than the international standards, lower than many other countries in the region such as Japan, Korea. Meanwhile, 10 years ago, the height of Japan was not much different from that of Vietnam, now, their physical condition has risen to the top of Asia.
These are the information given by Professor Nakamura Teiji – President of the National Nutrition Association of Japan at the International Conference on “Vietnamese Nutrition” by TH Group in collaboration with the Ministry of Health, Ministry of Education and Training, the Vietnam Women’s Union has just held in Hanoi.
As a participant in designing educational programs on nutritional science to improve the stature and fitness of the Japanese, he said that the key to improving nutrition is the school meal program.
polyad
Professor Nakamura Teiji – President of the National Dietetic Association of Japan shared experiences in improving nutrition of Japanese people.
“Ancient Japanese meals were inadequate, there were deficiencies and poverty, leading to malnutrition, stunting, weak physical strength and very low life expectancy,” he said.
In 1945, after the second world war, due to food shortages, the Japanese had a huge problem with malnutrition and famine. Under these circumstances, when receiving skim milk and flour from the US, this country organized a school milk program for children.
In such difficult circumstances, the priority target is children – preschool in the future of the country. Adults give these to children, and school meals improve with each year.
Initially, school meals were only skim milk because the Japanese did not have the conditions to produce milk, but now milk is completely used, which is both more nutritious and delicious. than.
The implementation of school meals has been incorporated into Japanese law, demonstrating the nation’s encouragement to hosting school meals. The 1954 Japanese school meal law is applied in the education sector, with the nutritional intake and food safety management standards of school meals.
The results of this project bring about a marked change in the child’s stature, height and weight. After 50 years, the Japanese achieved remarkable success. In 1954, they were the same height as the Vietnamese, now they have the top height in Asia.
According to statistics 4-5 years ago, Japanese people also reduced diseases caused by living. Professor Nakamura Teiji said that school meals are one of the solutions to reduce the double burden of nutrition, to prevent malnutrition and obesity in children.
In 2005, Japan continued to promulgate the Basic Law on Nutrition Education, referring to the responsibility of enterprises in enhancing people’s understanding of the importance of diet. These businesses also focus on cooperating with ministries and agencies to apply nutritional measurement methods.
Sau 10 năm, người Nhật đã cải thiện chiều cao từ ngang bằng với Việt Nam lên đứng hàng đầu châu Á.
Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam chỉ đạt 164,4cm ở nam, 153,4cm ở nữ, thấp hơn chuẩn quốc tế lần lượt là 13,1cm và 10,7cm, thấp hơn rất nhiều quốc gia khác trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong khi đó, cách đây 10 năm, chiều cao của Nhật Bản không chênh nhiều so với Việt Nam thì hiện nay, thể trạng của họ đã vươn lên đứng hàng đầu châu Á.
Đây là những thông tin được Giáo sư Nakamura Teiji – Chủ tịch Hiệp hội Dinh dưỡng Quốc gia Nhật Bản đưa ra tại Hội thảo quốc tế về “Dinh dưỡng người Việt” do Tập đoàn TH phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam vừa tổ chức ở Hà Nội.
Là người tham gia thiết kế chương trình giáo dục về khoa học dinh dưỡng cải tạo tầm vóc, thể trạng người Nhật Bản, ông cho rằng chìa khóa để cải thiện dinh dưỡng là chương trình bữa ăn học đường.
Giáo sư Nakamura Teiji – Chủ tịch Hiệp hội Dinh dưỡng Quốc gia Nhật Bản chia sẻ kinh nghiệm cải thiện dinh dưỡng của người Nhật.
“Bữa ăn của người Nhật thời xưa không được đầy đủ, có sự thiếu hụt và nghèo nàn, dẫn đến suy dinh dưỡng, thể thấp còi, thể lực yếu và tuổi thọ rất thấp”, ông nói.
Năm 1945, sau chiến tranh thế giới thứ hai, do thiếu thốn lương thực, người Nhật gặp vấn đề rất lớn với tình trạng suy dinh dưỡng và nạn đói. Trong hoàn cảnh đó, khi nhận được sữa tách béo và bột mì từ Mỹ, nước này đã tổ chức chương trình sữa học đường cho trẻ em.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, đối tượng được ưu tiên là trẻ em – mầm non tương lai của đất nước. Người trưởng thành nhường những suất ăn đó cho trẻ và bữa ăn học đường được cải thiện dần qua từng năm.
Ban đầu, bữa ăn học đường chỉ có những loại sữa tách béo do người Nhật chưa có điều kiện để sản xuất sữa, nhưng hiện tại đã sử dụng hoàn toàn sữa tươi, loại sữa vừa có nhiều chất dinh dưỡng hơn, vừa thơm ngon hơn.
Việc thực hiện bữa ăn học đường đã được đưa vào luật pháp của Nhật Bản, thể hiện sự khuyến khích của quốc gia với việc tổ chức bữa ăn học đường. Luật bữa ăn học đường của Nhật Bản năm 1954 được áp dụng trong ngành giáo dục, với tiêu chuẩn hấp thụ dinh dưỡng và tiêu chuẩn quản lý an toàn thực phẩm của bữa ăn trường học.
Kết quả của dự án này mang tới sự thay đổi rõ rệt về tầm vóc, chiều cao, cân nặng của trẻ. Sau 50 năm, người Nhật đạt được những thành công vượt trội. Năm 1954, họ có chiều cao tương đương người Việt thì nay họ đã có chiều cao đứng top đầu châu Á.
Theo thống kê cách đây 4-5 năm, người Nhật cũng giảm hẳn các bệnh do sinh hoạt. Giáo sư Nakamura Teiji cho rằng, bữa ăn học đường là một trong những giải pháp giảm thiểu gánh nặng kép về dinh dưỡng, phòng ngừa suy dinh dưỡng và béo phì ở trẻ em.
Năm 2005, Nhật Bản tiếp tục ban hành Luật cơ bản về giáo dục dinh dưỡng, đề cập đến đến trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc nâng cao hiểu biết người dân về tầm quan trọng của chế độ dinh dưỡng. Những doanh nghiệp này cũng chú trọng hợp tác với các Bộ, ban ngành để áp dụng các phương pháp đo lường về dinh dưỡng.
As one of the most important airports in Japan, Kansai Airport is located on an artificial island in the middle of Osaka Bay, about 40 km from Osaka city.
Kansai Airport has been in operation since 1994 to reduce passengers for the overcrowded Osaka Airport that cannot be expanded due to its location in the densely populated area of Toyonaka City. Pictured is the first man-made island, with the airport’s T1 terminal. Photo: Renzo Piano Building Workshop.
Kansai Airport has been in operation since 1994 to reduce passengers for Osaka Airport, which is overloaded and cannot be expanded, due to its location in a densely populated area. Pictured is the first artificial island, with the airport’s T1 terminal before 2007. Photo: Renzo Piano Building Workshop.
The idea of a new airport on an artificial island 4,000 meters long and 1,200 meters wide was born in the 1980s. The project officially started in 1987. The location to build the island is about 5 km from the shore. But the problem that makes the engineers headache is not the above parameters, but the unstable sedimentary clay layer on the seabed and lightweight materials but still strong enough to withstand storms or earthquakes in the area. this area.
The engineering team started the project by digging 1.2 million sand wells into the sediment layer, to stabilize the seabed to be strong enough to support the artificial island. Next, an 11-kilometer-long concrete wall was completed within three years, enclosing the airport grounds like a wall of a swimming pool, preventing seawater from entering. 48,000 concrete blocks – each weighing 200 tons, are loaded onto the foundation. 180 million cubic meters of soil taken from three mountains, filled in the void inside the wall as high as 30 meters.
Not only have to build an island, the team of engineers also create a more impressive airport. Italian architect Renzo Piano submits a blueprint that will please both construction workers and prospective passengers. He designed the airport terminal 1.6 km long, wing shaped aircraft, with the main materials are steel and tempered glass. To minimize the impact on the environment and save on heating or cooling costs, a passive air conditioning system is designed specifically for the station. The air conditioning system passes through the 300,000 square meter station, maintaining a comfortable temperature in the range of 20 – 26 degrees Celsius.
Kansai Airport Terminal 1 is the longest in the world. Photo: VINCI.
The engineers’ next challenge is connecting the airport to the mainland. The optimal solution is to build a bridge over the sea, not too high to prevent aircraft from departing or landing, and not too low to build two floors. The upper floor is a 6-lane road for cars, while the lower floor is just enough for two train tracks. This work is named Sky Gate Bridge R.
Finally, with one million workers working for a total of 10 million hours, using 200 million tons of raw materials, Kansai airport opened after six years of construction.
Since 1994, it has been one of Japan’s busiest airports, serving more than 300,000 passengers a week, and welcoming 55,000 aircraft a year. It has become one of the greatest structures of the 20th century, compared with super structures such as the Hoover Dam (USA) or the Panama Canal. About 5 km from the shore, Kansai Airport is like a giant rectangle floating in the middle of Osaka Bay.
“When I got closer to an airport, I initially thought it was like landing an aircraft carrier or something like that. But it was not,” said one pilot. Jim Skusa, captain of JALways, said: “Nighttime visibility is very limited, because there is not much light around the airport. So they call it Black Hole Airport”. “The sea surface looks so close you will feel like you are diving there, quite scary,” said one passenger.
The bridge connecting Kansai airport to the mainland set the record for the longest two-story bridge in the world (3,750 m). Photo: Jtrip.
However, as the Kansai airport’s reputation resounded around the world, rumors also spread that it was sinking with the island. In 1999, on the occasion of the airport’s 5th birthday, it was estimated that the island had sunk about 8 meters, making many doubts about its durability, although the exploitation period lasted up to 40 years. After that, the engineering team believes they have found a solution, using new technology to reduce the sinking speed of the airport and continuously improve facilities.
In 2007, a second artificial island came into operation to reduce the impact of aircraft on runway and terminal 1. This artificial island has a 4,000 m long runway and terminal 2. the airport costs about $ 20 billion, including land reclamation fees, two runways, two terminals and facilities.
The landing at Kansai airport. Video: Planes Weekly.
In addition to its admirable achievements in architecture and engineering, Kansai Airport also has a positive impact on the environment. This place is one of the largest solar farms in Asia. In addition, the airport also uses hydrogen-powered vehicles, apply advanced technologies to treat wastewater.
It has survived numerous natural disasters, such as the 1995 Kobe earthquake that had an epicenter 20 km away or recovers rapidly from severe flooding caused by Typhoon Jebi in 2018. Experience learned from the construction process. This project has been applied by Japan to build 3 other airports on the artificial island: New Kitakyushu Airport, Kobe Airport, and Chūbu Centrair International Airport.
Currently, passengers arriving at Kansai airport can rent buses for sightseeing tours, priced at 12,300 – 15,400 yen (more than 2.6 – 3.3 million dong) per car for a group, tickets from 500 yen (nearly 110,000 dong). each person.
Depending on the weather, visitors can approach the planes parked on the runway, watch the aircraft take off and land. Photo: Kansai Airport.
The 60-minute schedule will bring visitors into a strict security check area that usually prohibits outsiders from entering, observing food preparation and many other operations of the airport. Besides, there is a tour to explore in detail the process of preparing food on the plane lasting 150 minutes, including lunch time. Tour starts from 11am and 11:30 on Wednesdays. In addition, visitors can choose the airport museum tour program lasting 30-60 minutes.
Là một trong những cảng hàng không quan trọng nhất Nhật Bản, sân bay Kansai tọa trên hòn đảo nhân tạo giữa vịnh Osaka, cách thành phố Osaka khoảng 40 km.
Sân bay Kansai đi vào hoạt động từ năm 1994 để giảm hành khách cho sân bay Osaka vốn quá tải lại không thể mở rộng, do nằm trong vùng đông dân cư. Trên ảnh là hòn đảo nhân tạo đầu tiên, với nhà ga T1 của sân bay trước năm 2007. Ảnh: Renzo Piano Building Workshop.
Ý tưởng về sân bay mới trên một hòn đảo nhân tạo dài 4.000 m và rộng hơn 1.200 m ra đời từ thập niên 80. Dự án chính thức khởi công vào năm 1987. Vị trí để xây đảo cách bờ khoảng 5 km. Song vấn đề khiến các kỹ sư đau đầu không phải những thông số trên, mà là lớp đất sét bồi tích bất ổn định dưới đáy biển và vật liệu nhẹ nhưng vẫn đủ chắc chắn để chống chọi với những trận bão hay động đất tại khu vực này.
Đội ngũ kỹ sư khởi công dự án bằng cách đào 1,2 triệu giếng cát xuống lớp bồi tích, nhằm ổn định đáy biển cho đủ vững chãi để nâng đỡ hòn đảo nhân tạo. Tiếp đó, một bức tường bê tông dài 11 km được hoàn thành trong vòng 3 năm, bao quanh khoảng đất xây sân bay như thành của bể bơi, ngăn nước biển tràn vào. 48.000 khối bê tông – mỗi khối nặng 200 tấn, được xếp xuống nền móng. 180 triệu mét khối đất lấy từ ba ngọn núi, được đổ đầy vào khoảng trống bên trong bức tường cao tới 30 m.
Không chỉ phải xây dựng một hòn đảo, đội ngũ kỹ sư còn tạo nên một sân bay ấn tượng hơn. Kiến trúc sư Italy Renzo Piano đệ trình một bản thiết kế chiều lòng cả những công nhân xây dựng lẫn hành khách tương lai. Ông thiết kế nhà ga sân bay dài 1,6 km hình cánh máy bay, với vật liệu chính là thép và kính cường lực. Để giảm thiểu tác động tới môi trường và tiết kiệm chi phí sưởi hay làm mát, một hệ thống điều hòa không khí thụ động được thiết kế riêng cho nhà ga. Hệ thống điều khí đi qua nhà ga rộng 300.000 mét vuông, duy trì nhiệt độ dễ chịu trong khoảng 20 – 26 độ C.
Nhà ga số 1 của sân bay Kansai là nhà ga dài nhất thế giới. Ảnh: VINCI.
Thách thức tiếp theo của các kỹ sư là kết nối sân bay với đất liền. Giải pháp tối ưu chính là xây dựng một cây cầu vượt biển, không quá cao gây cản trở máy bay khởi hành hoặc hạ cánh, và không quá thấp để xây vừa đủ hai tầng. Tầng trên là con đường 6 làn cho ôtô, còn tầng dưới vừa đủ cho hai đường tàu chạy. Công trình này được đặt tên là Sky Gate Bridge R.
Cuối cùng, với một triệu công nhân lao động trong tổng cộng 10 triệu giờ, dùng 200 triệu tấn nguyên vật liệu, sân bay Kansai mở cửa sau 6 năm xây dựng.
Kể từ năm 1994, nơi đây là một trong những cảng hàng không bận rộn nhất của Nhật Bản, phục vụ hơn 300.000 lượt khách một tuần, đón 55.000 máy bay một năm. Nó trở thành một trong những kiến trúc kỳ vĩ nhất thế kỷ 20, được so sánh với những siêu công trình như đập Hoover (Mỹ) hay kênh đào Panama. Cách bờ khoảng 5 km, sân bay Kansai như một hình chữ nhật khổng lồ nổi giữa vịnh Osaka.
“Khi tới gần sân bay, ban đầu tôi nghĩ giống hạ cánh xuống một tàu sân bay hoặc thứ gì đó tương tự. Nhưng thực tế không phải vậy”, một phi công nói. Jim Skusa, cơ trưởng hãng JALways, cho biết: “Tầm nhìn vào ban đêm rất hạn chế, do không có nhiều ánh sáng xung quanh sân bay. Thế nên họ gọi nó là sân bay Hố Đen”. “Mặt biển trông gần đến mức bạn sẽ có cảm giác như đang lặn xuống đó vậy, khá đáng sợ”, một hành khách cho hay.
Cầu nối từ sân bay Kansai vào đất liền lập kỷ lục cầu hai tầng dài nhất thế giới (3.750 m). Ảnh: Jtrip.
Tuy nhiên, khi danh tiếng của sân bay Kansai vang khắp thế giới, những lời đồn thổi cũng lan truyền rằng nó đang chìm dần cùng hòn đảo. Vào năm 1999, đúng dịp sinh nhật lần thứ 5 của sân bay này, ước tính hòn đảo đã chìm khoảng 8 m, khiến nhiều người hoài nghi về độ bền của nó, dù thời hạn khai thác kéo dài tới 40 năm. Sau đó, đội ngũ kỹ sư tin rằng họ đã tìm ra giải pháp, dùng kỹ thuật mới để giảm tốc độ chìm của sân bay và không ngừng cải thiện cơ sở vật chất.
Năm 2007, một đảo nhân tạo thứ hai đi vào hoạt động để giảm tác động của máy bay lên đường băng và nhà ga số 1. Đảo nhân tạo này có đường băng dài 4.000 m và nhà ga số 2. Tổng chi phí xây dựng sân bay hết khoảng 20 tỷ USD, bao gồm phí cải tạo đất, hai đường băng, hai nhà ga và cơ sở vật chất.
Bên cạnh những thành tựu đáng ngưỡng mộ về kiến trúc và kỹ thuật, sân bay Kansai còn có những tác động tích cực đến môi trường. Nơi này là một trong những trang trại năng lượng mặt trời lớn nhất tại châu Á. Bên cạnh đó, sân bay còn sử dụng các phương tiện chạy bằng khí hydro, áp dụng các công nghệ tiên tiến để xử lý nước thải.
Nó vẫn đứng vững sau nhiều thiên tai như trận động đất Kobe năm 1995 có tâm chấn cách đó 20 km hay hồi phục nhanh chóng sau khi bị ngập lụt nghiêm trọng do bão Jebi đổ bộ năm 2018. Kinh nghiệm rút ra từ quá trình xây dựng công trình này được Nhật Bản áp dụng xây thêm 3 sân bay trên đảo nhân tạo khác: sân bay New Kitakyushu, sân bay Kobe, và sân bay quốc tế Chūbu Centrair.
Hiện hành khách đến sân bay Kansai có thể thuê xe buýt cho các tour tham quan, giá 12.300 – 15.400 yên (hơn 2,6 – 3,3 triệu đồng) một xe cho một đoàn, vé từ 500 yen (gần 110.000 đồng) mỗi người.
Tùy tình hình thời tiết, khách tham quan có thể tới gần những máy bay đỗ trên đường băng, ngắm phi cơ cất cánh và hạ cánh. Ảnh: Kansai Airport.
Lịch trình kéo dài 60 phút sẽ đưa du khách vào khu vực kiểm tra an ninh nghiêm ngặt thường cấm người ngoài vào, quan sát quá trình chuẩn bị đồ ăn và nhiều khâu vận hành khác của sân bay. Bên cạnh đó là tour khám phá chi tiết quá trình chuẩn bị đồ ăn trên máy bay kéo dài 150 phút, gồm thời gian ăn trưa. Tour bắt đầu từ 11h và 11h30 các ngày thứ 4. Ngoài ra, du khách có thể chọn chương trình tham quan bảo tàng sân bay kéo dài 30 – 60 phút.
In early February, visitors to Kawazu can welcome Japan’s earliest spring and watch the cherry blossoms in full bloom.
The time for tourists to visit Japan to see the cherry blossoms are usually from February to the end of April. The most beautiful blooming time is in March. But only Kawazu, southeastern Japan, cherry blossoms. Full bloom again in early February, which is said to be the earliest blooming cherry blossoms.
Kawazu cherry blossoms bloom in early February. Photo: Pinterest.
Kawazu is famous for 8,000 cherry trees planted in equal rows around a river. The first cherry tree found here is from the 1950s by a resident. From there, flowers were planted systematically along the banks of the Kawazu River and some surrounding areas.
Train service to see the cherry blossoms in Kawazu. Photo: Boredpanda.
If you want to see the cherry blossoms in February, in the least noisy atmosphere, you should book tickets to Kawazu. There is a train ride to watch the cherry blossoms, which is very convenient and ideal for you to go all over Kawazu and watch the cherry blossoms.
Every February in Kawazu there is always a Kawazu-zakura cherry blossom festival. This is considered the largest festival in the area, so even though the weather is cold, visitors still come here very much. Every year this holiday has up to one million visitors to visit. The Kawazu-zakura festival takes place only for one month. At the festival you can also enjoy street side snacks around the flower viewing area. Some other activities during the festival such as watching waterfalls, hot spring baths, foot baths …
Kawazu-zakura cherry blossom festival at night. Photo: Spoon & Tamago.
Evening from 6pm to 9pm every day during the festival, there will be light displays by the beautiful cherry trees. The light of the festival shining on the side of the river will not disappoint.