Sumo-themed Airbnb apartment from MOSHI MOSHI ROOMS comes with a Sentō-style bath

Asobi Systems’ MOSHI MOSHI NIPPON project, which aims to spread and promote Harajuku’s kawaii pop culture throughout the world, launched a unique and very popular Airbnb apartment in 2018 called MOSHI MOSHI ROOMS. As we introduced on grape Japan, its first room had a cherry blossom theme, and its second one in 2019 was inspired by Japan’s famous paper-folding art of origami.

Cheery Blossom Theme

Now, for its third offering, MOSHI MOSHI ROOMS brings us DOSUKOI, a room inspired both by sumo wrestling and sumo culture, on the one hand, and sento 銭湯 public bathhouses, famous for their casual mood and their walls often painted with images of Mount Fuji and other traditional motifs.

MOSHI MOSHI ROOMS: DOSUKOI

Features like a giant sumo wrestler’s hands and a bath area with a large cypress wood bathtub and a painting of Mount Fuji create an extraordinary world view.

You’ll appreciate the bold design from the entrance to the living room and the public bath space. Not only a fun place to stay with your friends, it’s also a good option for families with young children who can enjoy the public bath in a safe, comfortable and fun environment.

The lights represent sumo wrestlers’ tsupparite hand thrusts and the furniture has beige and white accents, the same colors as the sumo ring.

The beautiful cypress wood bathtub is spacious enough for up to five guests and bath salts are available for guests who desire them. Above, you’ll see a square canopy-like curtain just like the one draped from the giant raised roof suspended over the sumo ring at a sumo hall.

Each of the bunk beds has two single beds, and up to 5 people can be accommodated by combining storage beds.

Address: 2-18-7 Jingumae, Shibuya, Tokyo
Access: 8 minutes on foot from Meiji-Jingumae (Harajuku) Station via the Chiyoda and Fukutoshin lines.
Occupancy: 1-6 people
Price: ¥40,000 (does not include handling and service charges)
*1 room 1 night (subject to change depending on the period)
Website: MOSHI MOSHI ROOMS
https://www.airbnb.com/rooms/42243216?source_impression_id=p3_1584086674_jjke9Pg14nCsh7Xt

Cre: https://grapee.jp/en/134131

Incredible mascots for Tokyo Olympics 2020

2020 is an extremely important year in Japan when hosting the Olympic Games in Tokyo. Let’s learn about the mascot of the 2020 Olympic Games – the largest sports festival on the planet

1/ What is Olympic mascot?

The mascot is the symbolic character representing the event and for the host venue, usually the mascot is an anthropomorphized animal with cute and cute demolition lines created and used by humans. used as symbols to convey the meaning of the sport.

Olympic mascot: A character with a combination of tradition and modernity, with extraordinary strength that helps this character can move to anywhere immediately, symbolizing the spirit of justice.

Paralympic mascot: A calm but extraordinary power, talks to the wind and rocks and has the ability to move things easily with kindness and great love of nature.

2/ Which mascot will be chosen of the 2020 Olympic Games in Tokyo?

Mascots of the 2020 Olympic Games selected by Japan are Miraitowa (blue eyes), Someity (red eyes); This is a Japanese fantasy, cartoon and comic character. Accordingly, the Olympic mascot named “Miraitowa” is made up of two words in Japanese with “mirai” (meaning the future) and “towa” (meaning eternal) with the meaning of 2020 Olympic will promote A future full of hope in the heart of humanity.

The other character represents the Paralympic name “Someity“, one of the famous Japanese cherry blossoms, and it has other meanings when the phrase “so mighty” means mighty in English. The Somaity mascot symbolizes the strength of disabled athletes to rise up in every adversity.

The 2020 Tokyo Olympic and Paralympic mascot design contest was launched throughout the country by the Organizing Committee of the Tokyo Olympic and Paralympic Games. With 2024 mascot designs sent to, 1774 individual designs, 268 copies of the collective, the 3 best designs made it to the final vote.

3 designs were selected to the final

The 2020 Olympic mascot poll was held at 205,755 classrooms at 16,769 elementary schools, at the discretion of the students. In the end, the mascot couple with 109,041 votes was Superhero

Do you know what the mascot of the 2020 Olympic Games in Tokyo Japan is?
As expected, the Tokyo Olympic Games will take place from 24/7 to 9/8/2020 with 207 countries participating; compete 33 subjects with 324 contents. The 2020 Tokyo Paralympic Games runs from August 25 to September 6, 2020. Thereby, Tokyo became the first city in Asia to host the Olympics twice.

Hiểu thêm về linh vật của Tokyo Olympic 2020

Năm 2020 là năm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng tại xứ sở anh đào khi đăng cai tổ chức Olympic tại Tokyo. Cùng tìm hiểu về linh vật của kỳ Olympic 2020- đại hội thể thao lớn nhất hành tinh này nhé!

1/ Linh vật Olympic là gì?

Linh vật là nhân vật biểu tượng đại diện cho sự kiện đó và cho chính nơi đăng cai tổ chức, thông thường linh vật là động vật được nhân hóa với những đường nét phá cách ngộ nghĩnh, đáng yêu được con người sáng tạo và sử dụng như những biểu tượng để truyền đạt ý nghĩa của kỳ thể thao đó.

Linh vật Olympic: Là được coi là nhân vật có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, với sức mạnh phi thường giúp nhân vật này có thể di chuyển đến bất kỳ nơi nào ngay lập tức, biểu trưng tinh thần công lý.

Linh vật Paralympic: được xem là nhân vật điềm tĩnh nhưng có sức mạnh phi thường, nói chuyện với gió và đá sỏi và có khả năng di chuyển đồ vật dễ dang với lòng tốt và tình yêu thiên nhiên to lớn.

2/ Linh vật của Olympic 2020 tại Tokyo là ai?

Linh vật của kỳ Olympic 2020 được Nhật Bản lựa chọn là Miraitowa (mắt xanh), Someity (mắt đỏ); đây là nhân vật tưởng tượng, hoạt hình và truyện tranh nhưng đúng chất Nhật Bản. Theo đó, linh vật của Olympic có tên là “Miraitowa” được ghép từ 2 từ trong tiếng Nhật với “mirai” (có nghĩa là tương lai) và “towa” (nghĩa là vĩnh cửu) với ý nghĩa Olympic 2020 sẽ thúc đẩy một tương lai đầy hy vọng vĩnh cửu trong trái tim nhân loại.
Bạn đã biết linh vật của Olympic 2020 tại Tokyo Nhật Bản là gì chưa?

Nhân vật còn lại đại diện cho Paralympic mang tên “Someity”, một trong những loài hoa anh đào nổi tiếng của Nhật Bản, hơn nữa nó còn ý nghĩa khác khi cụm từ “so mighty” có nghĩa là hùng mạnh trong tiếng Anh. Linh vật Somaity tượng trưng cho nghị lực của những vận động viên khuyết tật vươn lên trong mọi nghịch cảnh.

Cuộc thi thiết kế linh vật Olympic và Paralympic Tokyo 2020 đã được Uỷ ban Tổ chức Thế vận hội Olympic và Paralympic Tokyo phát động trong cả nước. Với Có 2024 mẫu thiết kế linh vật được gửi đến, 1774 bản thiết kế của cá nhân, 268 bản của tập thể, 3 mẫu thiết kế tốt nhất đã lọt vào vòng bình chọn cuối cùng.

3 mẫu thiết kế được chọn vào chung kết

Cuộc bình chọn linh vật Olympic 2020 được diễn ra tại 205.755 lớp học tại 16.769 trường tiểu học, dưới sự quyết định của chính các học sinh. Cuối cùng, cặp đôi linh vật với 109.041 lá phiếu chính là Superhero

Theo dự kiến, Olympic Tokyo diễn ra từ ngày 24/7 đến 9/8/2020 với 207 quốc gia tham dự; thi đấu 33 môn với 324 nội dung. Paralympic Tokyo 2020 kéo dài từ 25/8 đến 6/9/2020. Qua đó, thành phố Tokyo trở thành thành phố đầu tiên của châu Á 2 lần đăng cai Thế vận hội.\

A unique Japanese style sand bath by the ocean at Beppu, Oita

Beppu is well known as Japan’s “hot spring city” because it is famous for its many hot springs and relaxing onsen baths. However, besides onsen baths, visitors to Beppu also experience a unique sand bath.

Along with onsen baths, sand baths are considered as one of the methods to relax and treat well, promote blood circulation, beautify the skin, restore energy for the body … Sand is used when experiencing sand bathing in This is a moist sand, warmed from the natural heat of the groundwater.

OLYMPUS DIGITAL CAMERA

After paying, you will receive a Yukata suit, usually men’s wear will be dark blue, women’s will be red or light pink. Next, you will enter the changing room and change Yukata. Note that you need to remove all clothing and only wear Yukata. Once you have changed, you will be taken to a sand bath area, laid down, with your head on a wooden pillow.

As the cut is applied all over, you will gradually feel the warmth of the sand and the heat is spreading throughout the body. Close your eyes, enjoy the relaxation and listen to your own body. It takes about 15 minutes for a sand bath because if you take a long bath, your skin could be damaged by heat. After leaving the sand, you can continue to enjoy the relaxing feeling at hot onsen.

Japanese woman being buried in sand bath at Beppu, one of the very few places in Japan where sand or mud are also used for spa treatments. Beppu’s sand bath is conveniently located on Shoningahama Beach

Normally, there will be instructional tables on sand bathing so you can refer to to know more about the process. To avoid crowding, you should experience sand bathing in the early morning, when people are not many and quite a few guests. If you arrive during rush hour, you may have to wait quite a long time. In the meantime, relax at the foot baths.

In addition to sand baths and onsen baths, visitors to Beppu can also visit hot springs, famous hot springs such as Umi Jigoku hot spring and Kamado Jigoku hot spring or Oniishi Bozu Jigoku hot spring.

Trải nghiệm tắm cát nóng độc đáo kiểu Nhật tại thành phố Beppu, tỉnh Oita

Người ta thường biết đến Beppu như là “thành phố suối nước nóng” của Nhật Bản bởi nơi đây nổi tiếng với rất nhiều suối nước nóng cùng dịch vụ tắm onsen thư giãn. Tuy nhiên, bên cạnh tắm onsen, du khách đến với Beppu còn được trải nghiệm tắm cát độc đáo.

Cùng với tắm onsen, tắm cát được xem là một trong những phương pháp thư giãn và trị liệu tốt, thúc đẩy tuần hoàn máu, làm đẹp da, tái tạo năng lượng cho cơ thể… Cát được sử dụng khi trải nghiệm tắm cát tại đây là loại cát ẩm, được làm ấm từ hơi nóng tự nhiên của mạch nước ngầm.

Sau khi trả tiền, bạn sẽ được nhận một bộ đồ Yukata, thông thường đồ của nam sẽ có màu xanh đậm, của nữ sẽ có màu đỏ hoặc hồng nhạt. Tiếp đó, bạn sẽ vào phòng thay đồ và thay Yukata. Lưu ý là ban cần cởi bỏ tất cả trang phục trên người và chỉ mặc Yukata. Khi đã thay đồ xong, bạn sẽ được đưa tới khu vực tắm cát, nằm xuống, đầu đặt trên gối gỗ.

OLYMPUS DIGITAL CAMERA

Khi cắt được đắp lên khắp người, bạn sẽ dần cảm nhận được sự ấm áp của cát và sức nóng đang lan tỏa khắp cơ thể. Hãy nhắm mắt lại, tận hưởng sự thư giãn và lắng nghe cơ thể của chính bản thân mình. Thời gian diễn ra tắm cát khoảng từ 15 phút bởi nếu tắm quá lâu thì da bạn có thể bị tổn thương do nhiệt. Sau khi rời khỏi bãi cát, bạn có thể tiếp tục tận hưởng cảm giác thư thái tại onsen nước nóng.

Thông thường, nơi đây sẽ có các bảng hướng dẫn về tắm cát nên bạn có thể tham khảo qua để hiểu thêm về quy trình. Để tránh đông đúc, bạn nên trải nghiệm tắm cát vào đầu giờ sáng, khi mà mọi người chưa đến nhiều và khá ít khách. Nếu đến vào giờ cao điểm, có thể bạn sẽ phải chờ đợi khá lâu. Trong thời gian chờ đơi, bạn thư giãn tại các bồn ngâm chân.

Bên cạnh trải nghiệm tắm cát và tắm onsen, du khách đến với Beppu còn có thể tham quan các hồ nước nóng, suối nước nóng nổi tiếng như suối nước nóng Umi Jigoku và suối nước nóng Kamado Jigoku hay suối nước nóng Oniishi Bozu Jigoku.

Dịch Covid-19, bạn phải đi máy bay: Để không bị lây virus, 4 điều phải nhớ nằm lòng

Thông tin nhiều người nhiễm Covid-19 vì đi cùng một chuyến bay có bệnh nhân dương tính với virus này đã khiến những người đi máy bay công tác, hay có việc lo lắng. Vậy đi máy bay mùa dịch cần lưu ý điều gì để an toàn?
Trên chuyến bay VN0054 từ London về đến Hà Nội sáng sớm 2.3 có hành khách N.H.N (ngụ Hà Nội) được xác nhận nhiễm Covid-19, ngay sau đó, nhiều người cùng chuyến bay cũng phải cách ly điều trị vì dương tính với Covid-19. Vậy đi máy bay trong mùa dịch cần lưu ý điều gì để đảm bảo an toàn, phòng chống dịch Covid-19?
Mang theo dung dịch rửa tay sát khuẩn
Vừa từ Hàn Quốc về Việt Nam vào ngày 29.2 trên chuyến bay của Vietnam Airlines, chị Bùi Thị Ngọc Bích (28 tuổi, quê Đắk Nông) cho biết, thông thường hãng sẽ cung cấp cơm cho chặng bay khoảng 5 tiếng này. Nhưng khi có dịch, hãng đổi cơm thành 1 ổ mì mặn và 1 ổ mì ngọt cùng 1 chai nước suối.
Tuy nhiên, trong suốt cả chuyến bay, nhân viên không phục vụ dung dịch rửa tay sát khuẩn, các vị trí khác trên máy bay cũng không có gel rửa tay sát khuẩn.
Trao đổi với phóng viên, hãng hàng không Vietnam Airlines cho biết, hiện hãng không cung cấp dung dịch diệt khuẩn trên máy bay mà chỉ cấp tại các phòng khách Bông Sen ở mặt đất.
Hãng có phát khẩu trang trên một số chuyến bay từ vùng dịch về nếu hành khách có yêu cầu, tuy nhiên, số lượng khẩu trang hạn chế nên hãng khuyến cáo hành khách chủ động trang bị và đeo khẩu trang của mình để tránh lây nhiễm.
“Hiện các chuyến bay nội địa không giới hạn chất lỏng có nồng độ cồn dưới 24%, còn bay quốc tế mới áp dụng quy định không quá 100ml/chai nên khách có thể cân nhắc để mang gel rửa tay sát khuẩn cho phù hợp”, đại diện hãng hàng không cho biết.
Mở chế độ lọc khí
Một chuyên gia thiết kế hệ thống lọc khí chống dịch cho biết, trên máy bay có hệ thống luân chuyển không khí áp lực dương, ngay trên đỉnh đầu mỗi hành khách.
Nếu hệ thống đó bật thì sẽ tạo luồng khí sạch từ trên xuống dưới mỗi hành khách, khí cũ bị hút vào hệ thống lọc. Về vấn đề này, đại diện hãng hàng không Vietnam Airlines cũng cho biết, hệ thống lọc khí vẫn duy trì hoạt động trên tất cả các chuyến bay.
“Toàn bộ máy bay của Vietnam Airlines đều được các nhà sản xuất Boeing và Airbus trang bị hệ thống màng lọc không khí HEPA (High Efficiency Particulate Air) ngay từ thời điểm tiếp nhận, giúp giảm xuống tối thiểu nguy cơ lây lan vi khuẩn, virus trên chuyến bay. Hệ thống này giúp loại bỏ đến hơn 99,99% các phần tử như hạt bụi, phấn hoa, tế bào da người, vi khuẩn và virus có kích thước tối thiểu từ 0,001 micromet”, đại diện hãng cho hay.
Hạn chế vịn tay
Những vị trí được nhiều người chạm tay nhất lại chính là những nơi chứa nguy cơ có vi khuẩn có hại rất cao như: tay vịn máy bay, thang lên máy bay, thanh vịn trong nhà vệ sinh, bồn rửa mặt trên máy bay,…
Do vậy, theo những hành khách người Việt vừa trở về từ Hàn Quốc, khi “xứ sở Kim Chi” bùng phát dịch Covid-19, họ luôn trong tâm thế đề phòng cao độ. Không chạm tay vào các vị trí mà nhiều người có khả năng chạm. Trường hợp lỡ chạm vào thì ngay lập tức dùng dung dịch rửa tay sát khuẩn hoặc rửa tay với xà bông.
“Không chỉ trên máy bay, mà trước khi lên máy bay, tôi cũng không chạm vào tay vịn thang cuốn, khay đựng đồ tại cửa kiểm tra an ninh và tất cả các bề mặt trong nhà vệ sinh”, một người Việt vừa trở về từ Hàn Quốc cho biết.
Hạn chế vào nhà vệ sinh
Ông Dương Trí Thành, Tổng giám đốc Vietnam Airlines, cũng vừa cho rằng, nhà vệ sinh chính là nơi có nguy cơ lây lan Covid-19 lớn nhất. Ông nói: “Các khu vực công cộng sử dụng chung thường có nguy cơ lớn nhất” trong lây lan virus gây dịch Covid-19, đặc biệt là nhà vệ sinh”.
Do đó, nếu trên máy bay bạn có thể hạn chế sử dụng nhà vệ sinh khi thật cần thiết, hoặc nếu cần phải sử dụng trên các chuyến bay dài thì hãy rửa tay thật kỹ trước khi rời khỏi.
Ngoài những lưu ý trên, để đảm bảo an toàn, phòng chống dịch Covid-19 khi đi máy bay, mỗi người cần phải luôn đeo khẩu trang khi tiếp xúc nơi đông người. Hãy mang bao tay y tế khi tiếp xúc nơi công cộng, hoặc phải rửa tay với xà bông, dùng dung dịch sát khuẩn sau mỗi lần chạm vào các vị trí mà nhiều người có thể chạm.

The art of making fake food in Japan: Looking “real” more than real food

In the land of cherry blossoms, making fake food models is considered a form of craft art that requires elaborate, meticulous and long-standing tradition. In particular, this is also a profitable industry, earning a lot of profits for businesses.
This unique art is called Sampuru and has become a long-standing traditional culinary culture in Japan. Most restaurants, food stalls, supermarkets display fake products to illustrate the menu food for diners.
In addition to making the dish eye-catching, appealing and stimulating to the taste, the display of fake food also helps customers have an overview of the food they will choose. A great business strategy: what you see is what you get after ordering.

The idea came to surprise

However, few people know that the idea of ​​making fake food first appeared in Japan in 1926, by Iwasaki Takizo – a citizen living in Osaka. This idea arose in a situation his family was having difficulties when his wife was seriously ill.

One night, Takizo sat next to his wife to care for her under the light of a candle in the room. His mood was confused because he didn’t know how to have money to make ends meet. Suddenly Takizo saw that the wax was flowing, he grabbed it with his finger and saw his fingerprints printed on the wax as the wax dried. Strangely enough, he continued to pour candle wax while it was melting down the mat and discovered that the wax piece when dry also clearly printed the line of projection.

And then he came up with the idea of ​​making a dish out of candle wax. After a period of tinkering, learning from the craftsmen making candles with candles, Takizo made his own dishes. The first product he gave his wife was a model of omelet omelet coated with tomato sauce, and his wife was completely stunned because she could not distinguish between fake and real.

Later, Takizo saw the business potential in his replica products and decided to pioneer the creation of a new art form, becoming the standard for the food industry. This is considered a major change in the life of Iwasaki Takizo as well as in Japanese cuisine.

Iwasaki is truly a visionary as this is a “ripe” time for the revolution of making fake food models. The combination of urbanization, thriving culinary culture and the trend of enjoying exotic foods of countries created the cradle that nurtured Sampuru art in the 1920s.

A work of art requires many meticulous stages

“It’s already a Japanese tradition. The Japanese are very careful, they want to know in advance what they will look like,” said Fujita, 38, an artist who makes fake food. Journalist Yasunobu Nose, who once wrote a book on replica products, said that the art is rooted in the Japanese perspective: in addition to requiring food to be delicious, it must satisfy the sight of eater.

Each sampuru is a work of art and is almost handcrafted with the hands of skilled artisans. All fake food products are not mass produced, but each restaurant and restaurant will have its own requirements, no restaurant like any other restaurant. While many other companies also use a more affordable mass production model, people still prefer hand-crafted works, which are very expensive. Each sampuru model usually costs 10 to 20 times more than the price of the real dish.
According to Fujita, any food can be a fake model. First, the color-mixing plastic will be heated for 10-30 minutes, then poured into the mold (made by pressing the food to be made into molten silicon) and allowed to cool until hardened. Next, the artist will polish the block of product and then paint, and finally paint a glossy layer to preserve the surface color.

Fujita said the hardest part is how to make the fake products look as realistic as possible. And yet, all the small details must be imitated to look like them, so they are laborious to create each small part of the product with the number doubled, tripled. For example, if they wanted to model rice plates, they had to make individual rice grains individually by attaching glue to many white beads.

With chopsticks such as ramen, all the ingredients of the dish will be individually processed and then assembled into a bowl carefully. The artisans also shaped the products combined with chopsticks, spoons and decorated other items in the restaurant. The noodles are made from stretched plastic chains that bend like the real thing. Slices of pork, chopped garlic and half a hard-boiled egg will be meticulously molded before being placed in hard plastic broth.

Nghệ thuật làm thức ăn giả tại Nhật Bản

Ở xứ sở hoa anh đào, thực hiện các mô hình thức ăn giả được xem là một loại hình nghệ thuật thủ công đòi hỏi sự công phu, tỉ mỉ và có truyền thống từ lâu đời. Đặc biệt, đây còn là ngành công nghiệp sinh lời, thu về nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Môn nghệ thuật độc đáo này có tên gọi là Sampuru và trở thành nét văn hóa ẩm thực truyền thống lâu đời ở Nhật Bản. Hầu hết các nhà hàng, quầy thức ăn, siêu thị đều trưng bày sản phẩm giả để minh họa thức ăn trong thực đơn cho thực khách.
Ngoài việc nó khiến món ăn trông bắt mắt, hấp dẫn và kích thích vị giác, việc trưng bày thức ăn giả còn giúp khách hàng có cái nhìn bao quát về món ăn họ sẽ chọn lựa. Một chiến lược kinh doanh rất tuyệt vời: những gì bạn thấy là những gì bạn sẽ nhận được sau khi gọi món.

Ý tưởng nảy đến bất ngờ

Thế nhưng, ít ai biết rằng ý tưởng làm thức ăn giả xuất hiện lần đầu tiên tại Nhật Bản vào năm 1926, do Iwasaki Takizo – một công dân sống tại Osaka nghĩ ra. Ý tưởng này nảy sinh trong hoàn cảnh gia đình ông đang gặp khó khăn, khi vợ ông bị bệnh nặng.

Vào một đêm nọ, Takizo ngồi cạnh vợ để săn sóc cho bà dưới ánh nến le lói trong căn phòng. Tâm trạng ông rối bời vì không biết làm cách nào có tiền để trang trải cuộc sống. Bỗng Takizo thấy sáp nến đang chảy, ông dùng ngón tay hứng lấy và thấy dấu vân tay của mình in lên miếng sáp khi miếng sáp khô lại. Thấy kỳ lạ, ông tiếp tục đổ sáp nến khi còn nóng chảy xuống chiếu và phát hiện miếng sáp khi khô cũng in rõ ràng đường lằn chiếu.

Và rồi ông nảy ra ý tưởng làm món ăn từ sáp nến. Sau một thời gian mày mò, học hỏi từ những người thợ làm đồ vật bằng sáp nến, Takizo tự tay làm những mô hình món ăn. Sản phẩm đầu tiên ông tặng vợ là mô hình món trứng cuộn omelet phủ sốt cà, và vợ ông hoàn toàn sửng sốt vì không thể phân biệt thực giả.

Sau đó, Takizo nhìn thấy tiềm năng kinh doanh trong những sản phẩm bản sao của mình và quyết định tiên phong trong việc tạo ra loại hình nghệ thuật mới, trở thành tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp thực phẩm. Đây được coi là chuyển biến lớn trong cuộc đời Iwasaki Takizo cũng như trong nền ẩm thực Nhật Bản.

Iwasaki quả thực là một người có tầm nhìn xa khi đây là thời gian “chín muồi” cho cuộc cách mạng làm mô hình thức ăn giả. Sự kết hợp của đô thị hóa, nền văn hóa ẩm thực phát triển mạnh mẽ cùng với xu hướng thưởng thức những món ăn kỳ lạ của các nước đã tạo ra cái nôi nuôi dưỡng nghệ thuật Sampuru vào những năm 1920.

Một tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi nhiều công đoạn tỉ mỉ

“Nó đã là truyền thống của Nhật Bản rồi. Người Nhật cẩn thận lắm, họ muốn biết trước món họ ăn sẽ trông như thế nào”, Fujita, 38 tuổi, nghệ nhân chế tác đồ ăn giả, cho biết. Nhà báo Yasunobu Nose, người đã từng viết sách về sản phẩm bản sao, cho rằng bộ môn nghệ thuật này bắt nguồn từ quan điểm của người Nhật: ngoài đòi hỏi món ăn phải ngon miệng, nó còn phải thỏa mãn được thị giác của người ăn.

Mỗi chiếc sampuru là một tác phẩm nghệ thuật và gần như được làm thủ công bằng chính đôi tay của những nghệ nhân cao tay nghề. Mọi sản phẩm thức ăn giả không được sản xuất hàng loạt, mà mỗi nhà hàng, quán ăn sẽ có những yêu cầu riêng, không nhà hàng nào giống nhà hàng nào. Tuy nhiều công ty khác cũng vận dụng mô hình sản xuất hàng loạt có giá cả phải chăng hơn, người ta vẫn chuộng những tác phẩm được làm một cách thủ công, vốn rất đắt đỏ. Mỗi một vật mẫu sampuru thường có giá gấp 10 đến 20 lần so với giá của món ăn thật đó.
Theo Fujita, mọi thực phẩm đều có thể làm mẫu vật giả. Đầu tiên, nhựa trộn màu sẽ được đun nóng từ 10-30 phút, sau đó đổ vào khuôn (được tạo ra bằng cách nhấn thực phẩm cần tạo vào silicon nóng chảy) và để nguội cho đến khi cứng lại. Tiếp theo, nghệ nhân sẽ đánh bóng khối sản phẩm rồi thực hiện công đoạn sơn vẽ, và cuối cùng phủ một lớp sơn bóng để bảo quản màu bề mặt.

Fujita cho biết công đoạn khó nhất là làm sao để màu trên sản phẩm giả giống thật nhất có thể. Chưa hết, mọi chi tiết nhỏ nhặt cũng phải bắt chước làm sao cho thật giống, do đó họ đều tốn công sức tạo ra từng bộ phận nhỏ của sản phẩm với số lượng nhân đôi, nhân ba. Chẳng hạn như, nếu muốn làm mô hình đĩa cơm, họ phải làm riêng lẻ từng hạt cơm một bằng cách dùng keo đính lên nhiều hạt cườm màu trắng.

Với những món sử dụng đũa như mì ramen, mọi thành phần của món ăn sẽ được chế tác riêng lẻ rồi sau đó lắp ráp vào trong chiếc bát một cách cẩn thận. Những nghệ nhân còn tạo hình sản phẩm kết hợp với đũa, muỗng và trang trí thêm những vật dụng khác trong nhà hàng. Sợi mì được làm từ những chuỗi nhựa dẻo kéo dài và uốn cong y như thật. Lát thịt lợn, tỏi xắt nhỏ và nửa quả trứng luộc sẽ được đúc khuôn tỉ mỉ trước khi cho vào nước lèo bằng nhựa cứng.

One of Japan’s Most Unique Foods – Shirouo no Odorigui (Dancing Fish)

Japan is a country associated with the sea, so the food they consume every day is related to the fresh food caught from the sea. Referring to the land of the rising sun is referring to the long-standing traditional culture with the meticulous attention to detail. Therefore, enjoying fresh food is also considered in the unique culture of Japan. Especially for fish, the average consumption of cherry blossoms will be 5 times higher than that of other countries in the world.

Shirouo no Odorigui is a traditional Japanese dish made from transparent young fish. Odorigui in Japanese means “dancing when eaten”, and as the name implies, when you enjoy this dish, the young fish will “dance” in your mouth, making you extremely excited. , in the Edo period over 300 years ago, spring floods often caused great damage to crops in Fukuoka as well as southern Japan. Therefore, the landlord (daimyo) here hired farmers from nearby villages to clean up after the disaster. In thanks, daimyo gave these farmers a few barrels of sake so they could drink right on the river bank. While drinking, they grabbed the small fish underwater with their hands and put them in their mouths. Since then began the tradition of eating Shirouo in Fukuoka and gradually gained popularity in many localities of Japan.

Hirouo are very small fish, transparent and eaten raw, They look like mirror eels and 13 cm long. In English, it is called ice goby, and in Japanese it is called shiro-uo, which is the fish used to make shirauo no odorigui, or raw fish. Small fish will struggle in your mouth when you eat them, which is why it’s called “shiro no odorigui”, meaning “dancing fish”. The interesting thing about this dish is to feel the fish dancing in the mouth when eating, many people think that the interesting thing about Shirouo no odorigui is that when you eat, the fish will dance or sniff in the mouth. And this is a very interesting feeling.Shiro no odorigui (dancing fish).

These transparent fish are kept in a large bowl containing little water. People prepare one more egg and some vinegar. When eating, diners crack the egg into a cup and mix with a little vinegar. The vinegar mixes into the shirouo to make the fish scratchy, making the fish “dance” stronger than usual, creating a “feeling” more for people to enjoy. Many people often chew small fish, but how to enjoy Shirouo no Odorigui It must really be swallowed raw and drunk with sake. Meanwhile, the feeling of the fish “swimming around” in the stomach will make anyone who has the opportunity to enjoy are surprised and excited. And this is also a unique point, making Shirouo no Odorigui become a specialty dish unique to Japan.

Shirouo fish are only available in the spring, so when Japanese people enjoy this dish, it is also the time when the cold winter is over. In Japan, there are many restaurants serving Shirouo no Odorigui which are only open during the season of Shirouo fish. These restaurants only seem to exist as spring and will be dismantled by the end of the annual Shirouo season. If you have the opportunity to visit the land of the rising sun and love the raw food, you will not be able to miss this interesting dish.

Tăng level thưởng thức món sống của Nhật với – Cá Nhảy tanh tách trong miệng?!

Nhật Bản là một quốc gia gắn liền với biển, do vậy thực phẩm họ tiêu thụ hằng ngày điều liên quan đến những đồ tươi sống được bắt lên từ biển. Nhắc đến xứ sở mặt trời mọc là nhắc đến những văn hóa truyền thống lâu đời với những sự cầu kỳ chuẩn đến từng chi tiết. Chính vì vậy thưởng thức đồ ăn tươi sống cũng được xét vào văn hóa đặc trưng của người Nhật Bản. Đặc biệt là các loại cá, trung bình lượng ca tiêu thụ của xứ hoa anh đào sẽ gấp 5 lần so với những đất nước khác trên thế giới.

Shirouo no Odorigui là một món ăn truyền thống của người Nhật Bản được chế biến từ những con cá non trong suốt. Trong tiếng Nhật Odorigui có nghĩa là “nhảy múa khi được ăn”, và cũng đúng như cái tên, khi bạn thưởng thức món ăn này, những chú cá non sẽ “nhảy múa” trong miệng khiến bạn vô cùng thích thú.Tương truyền, ở thời Edo cách đây hơn 300 năm, lũ lụt vào mùa xuân thường gây thiệt hại rất lớn cho mùa màng tại Fukuoka cũng như vùng phía nam Nhật Bản. Vì vậy, địa chủ (daimyo) ở đây đã thuê nông dân các làng lân cận dọn dẹp vệ sinh sau thiên tai. Để cảm ơn, daimyo tặng những người nông dân này vài thùng rượu sake để họ uống ngay trên bờ sông. Trong khi uống, họ dùng tay túm lấy con cá nhỏ dưới nước và cho luôn vào miệng. Từ đó bắt đầu truyền thống ăn Shirouo tại Fukuoka và dần phổ biến ở nhiều địa phương Nhật Bản.

Hirouo là những chú cá rất nhỏ, trong suốt và được ăn sống, Chúng có ngoại hình trông giống những con lươn gương và dài 13 cm. Trong tiếng Anh, nó được gọi là cá bống băng (ice goby), trong tiếng Nhật nó được gọi là shiro-uo, đây là loài cá dùng làm nguyên liệu cho món shirauo no odorigui tức là là món cá sống. Những con cá nhỏ sẽ giãy giụa trong miệng khi bạn ăn, chính vì thế món này mới có tên “shiro no odorigui”, nghĩa là “cá nhảy múa”. Điều thú vị của món ăn này là cảm nhận những chú cá nhảy múa trong miệng khi ăn.Nhiều người cho rằng, điều thú vị của món Shirouo no odorigui là khi bạn ăn, những chú cá sẽ nhảy hoặc ngó ngoáy trong miệng. Và đây là cảm giác rất thú vị.Shiro no odorigui (cá nhảy múa).

Về cơ bản đây là món cá sống. Tuy nhiên, do đặc trưng của món là ăn sống nên cách thưởng thức cũng có phần đặc biệt. Những chú cá trong suốt ấy được đựng trong một bát lớn có chứa ít nước. Người ta chuẩn bị thêm một quả trứng và chút giấm.

Khi ăn, thực khách đập quả trứng vào cốc và trộn với một chút giấm. Giấm trộn vào shirouo để làm cá xót, khiến cá “nhảy múa” mạnh hơn bình thường, tạo “cảm giác” nhiều hơn cho người thưởng thức.Nhiều người thường nhai những con cá nhỏ, tuy nhiên cách thưởng thức món Shirouo no Odorigui thực thụ phải là nuốt sống và uống cùng với rượu sake. Khi đó, cảm giác những con cá “bơi tung tăng” trong dạ dày sẽ khiến cho bất cứ ai có cơ hội được thưởng thức đều phải bất ngờ và thích thú. Và đây cũng chính là điểm độc đáo, khiến Shirouo no Odorigui trở thành món ăn đặc sản chỉ có ở Nhật Bản

Cá Shirouo chỉ có vào mùa xuân, do vậy khi người Nhật thưởng thức món ăn này cũng là lúc báo hiệu mùa đông lạnh giá kết thúc. Ở Nhật Bản, có nhiều nhà hàng phục vụ Shirouo no Odorigui chỉ mở cửa trong mùa có cá Shirouo. Những nhà hàng này dường như chỉ tồn tại như mùa xuân và sẽ được tháo dỡ vào cuối mùa Shirouo hằng năm. Nếu có dịp ghé lắm xứ sở mặt trời mọc và yêu thích những món ăn sống thì bạn sẽ không thể nào bỏ lỡ món ăn thú vị này.