Nơi hoa anh đào nở sớm nhất ở Nhật Bản

Vào đầu tháng 2, du khách đến Kawazu có thể đón mùa xuân sớm nhất Nhật Bản và ngắm hoa anh đào nở rộ.

Thời gian để khách du lịch tham quan Nhật Bản ngắm hoa anh đào nở thường là từ tháng 2 đến cuối tháng 4. Thời điểm hoa nở đẹp nhất là vào tháng 3. Nhưng chỉ riêng Kawazu, phía đông nam Nhật Bản, hoa anh đào lại nở rộ vào đầu tháng 2, nơi được cho là hoa anh đào nở sớm nhất.

Hoa đào ở Kawazu nở rộ vào đầu tháng 2. Ảnh: Pinterest.

Hoa đào ở Kawazu nở rộ vào đầu tháng 2. Ảnh: Pinterest.

Kawazu nổi tiếng với 8.000 gốc anh đào được trồng thành từng rặng đều quanh một dòng sông. Cây anh đào đầu tiên được tìm thấy tại đây là từ những năm 1950 bởi một người dân. Từ đó, hoa được trồng một cách hệ thống dọc bờ sông Kawazu và một số vùng lân cận.

Dịch vụ đi tàu hoả ngắm hoa anh đào ở Kawazu. Ảnh: Boredpanda.

Dịch vụ đi tàu hoả ngắm hoa anh đào ở Kawazu. Ảnh: Boredpanda.

Nếu bạn muốn ngắm hoa anh đào vào thời điểm tháng 2, trong bầu không khí ít ồn ào nhất, nên đặt vé đến Kawazu. Tại đây có dịch vụ đi tàu hỏa ngắm hoa anh đào, rất thuận tiện và lý tưởng để bạn có thể đi khắp Kawazu nhìn ngắm nhìn anh đào nở.

Vào tháng 2 hàng năm tại Kawazu luôn có lễ hội hoa anh đào Kawazu-zakura diễn ra. Đây được xem là lễ hội lớn nhất trong khu vực, do đó dù thời tiết còn lạnh du khách vẫn đến đây rất đông. Hàng năm dịp lễ này có tới một triệu du khách đến tham quan. Lễ hội Kawazu-zakura chỉ diễn ra trong một tháng. Tại lễ hội bạn còn có thể thưởng thức những món ăn vặt bên đường xung quanh khu vực ngắm hoa. Một số hoạt động khác trong lễ hội như ngắm thác nước, tắm suối nước nóng, ngâm chân…

Lễ hội hoa anh đào Kawazu-zakura vào ban đêm. Ảnh: Spoon & Tamago.

Lễ hội hoa anh đào Kawazu-zakura vào ban đêm. Ảnh: Spoon & Tamago.

Buổi tối từ 18h đến 21h mỗi ngày trong suốt thời gian lễ hội diễn ra sẽ có những màn trình chiếu đèn bên những cây anh đào tuyệt đẹp. Ánh sáng của lễ hội soi chiếu cạnh dòng sông sẽ không khiến bạn thất vọng.

Coastal Library for Japanese Children

In the minimalist building in terms of materials and layout, books are the thing that stands out, arousing excitement for children.

Picture Book Museum, also known as the Picture Book Library, is located in Iwaki City, Fukushima Prefecture, Japan. According to Architectuul, Japanese architect Tadao Ando designed this private library in 2005, mainly to serve three kindergartens.

The building is nearly 500 square meters on a total floor area of 635 square meters. On the outside, the gray concrete block doesn’t really attract the eyes of children.

However, when stepping inside, the brilliance of the neatly arranged books on the shelves is enough to overwhelm anyone.

The decoration and interior of the building are minimized. The hallways are deliberately kept dark, making the book stand out more than ever. “Thanks to the darkness, you can see the light,” Ando said.

The only three materials used in the library are reinforced concrete, glass and wood. Although many people do not appreciate concrete in many projects, Ando feels the warmth it brings. He found that the different shades of concrete help create more depth in the building.

The Picture Book Museum is considered one of the 25 most modern libraries in the world.

Going beyond its original purpose for children, visitors from all over also flock to admire the talented architect’s work and enjoy the international children’s book collection.

6,000 people visited the library in the first 10 months. They call this the “architecture of light”. The coastal location makes the building more poetic.

Critics remark that, like many other famous Ando buildings, the library creates the illusion that while built of concrete, its main materials are light and air.

Thư viện ven biển dành cho trẻ em Nhật Bản

Trong tòa nhà tối giản về vật liệu và cách bài trí, những cuốn sách là thứ nổi bật nhất, khơi dậy hứng thú cho trẻ em.

Bảo tàng Sách tranh (Picture Book Museum), còn được gọi là Thư viện Sách ảnh, nằm ở thành phố Iwaki, tỉnh Fukushima, Nhật Bản. Theo Architectuul, kiến trúc sư người Nhật Tadao Ando đã thiết kế thư viện tư nhân này năm 2005, chủ yếu để phục vụ ba trường mầm non.

Tòa nhà rộng gần 500 m2 trên tổng diện tích sàn là 635 m2. Nhìn bên ngoài, khối bê tông màu xám không thực sự hút mắt trẻ em.

Tuy nhiên, khi bước vào trong, vẻ rực rỡ của những đầu sách xếp ngay ngắn trên kệ đủ khả năng làm choáng ngợp bất kỳ ai.

Đồ trang trí, nội thất trong tòa nhà được giản lược tối đa. Các hành lang được giữ tối một cách có chủ ý, khiến sách nổi bật hơn bao giờ hết. “Nhờ bóng tối, bạn mới có thể nhìn thấy ánh sáng”, Ando nói.

Ba vật liệu duy nhất được sử dụng ở thư viện là bê tông cốt thép, kính và gỗ. Dù nhiều người không đánh giá cao bê tông trong nhiều công trình, Ando cảm nhận được sự ấm áp mà chất liệu này mang lại. Ông thấy các sắc độ khác nhau của bê tông giúp tạo nhiều sâu cho tòa nhà.

Bảo tàng Sách ảnh được xem là một trong 25 thư viện hiện đại nhất của thế giới.

Vượt xa mục đích ban đầu dành cho trẻ em, du khách từ khắp nơi cũng đổ về chiêm ngưỡng công trình của kiến trúc sư tài năng và thưởng thức bộ sưu tập sách thiếu nhi quốc tế.

6.000 người đã ghé thăm thư viện trong 10 tháng đầu tiên. Họ gọi đây là “kiến trúc của ánh sáng”. Vị thế ven biển khiến tòa nhà thêm phần thơ mộng.

Các nhà phê bình nhận xét, giống nhiều tòa nhà nổi tiếng khác của Ando, thư viện tạo ra ảo giác rằng tuy được xây bằng bê tông, vật liệu chính của nó là ánh sáng và không khí.

Autumn Festival in the city of Japan

The Kunchi Nagasaki Festival begins to dance from 2 dancers to the gods at the Suwa shrine.

At the time of Edo, when Japan enforced trade policy with foreign countries, Nagasaki was the only city of the Rising Sun country to be entitled to trade with China and the Netherlands. As a result, the coastal city can produce cultural festivals between the West and the main feature of the system. Nagasaki Kunchi is an in.

Những thương thuyền nước ngoài được tái hiện trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: ANA.

Water lovers reappeared during the Nagasaki Kunchi festival. Photo: ANA.

The autumn festival held on day 9 will be called O-Kunichi. Autumn is also the farmer who contributes his best produce to the gods to be grateful. The product for the gods is called “Kunichi” which is homophonous to the date 9. The word “Kunichi” in the Kunchi Nagasaki Festival is said to capture gui.

The festival is held from October 7 to 9 every year. Especially active dances are assigned to the neighborhood secured. To see the same dance again you have to wait 7 years because we have been changing each year. This action starts from dance to gods in Japan

Các điệu múa trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: 

Dances during the Nagasaki Kunchi festival. Photo: Tsunagu Japan.

When coming to the conference, visitors will architect operations, operate, certify the god system to Otabi-sou (god down the mountain). In addition to the media dances, visitors can not ignore the songs recreating the history of Japanese love with China and the Netherlands.

For Vietnamese tourists, Go-Shuinsen is a dance not to be missed when coming to the Nagasaki Kunchi festival. The dance recreated the scene of businessman Sotaro Araki bringing Princess Ngoc Hoa to her hometown. This charming lips is respected by the Japanese and the princess is also called affectionately by the Japanese with the name Anio-san.

Arriving in Nagasaki, visitors can visit the station’s highlights such as a peace memorial,

Diễu hành rước kiệu thần trong ngày lễ Nagasaki Kunchi. Ảnh: Nozomi Edu.

Shinto parade on Nagasaki Kunchi holidays. Photo: Nozomi Edu.

Lễ hội mùa thu tại thành phố hòa bình của Nhật Bản

Lễ hội Nagasaki Kunchi bắt nguồn từ điệu múa của 2 vũ nữ dâng lên các vị thần ở đền Suwa. 

Vào thời Edo, khi Nhật Bản thi hành chính sách bế quan tỏa cảng với các quốc gia bên ngoài, Nagasaki là thành phố duy nhất của đất nước mặt trời mọc được quyền giao thương với Trung Quốc và Hà Lan. Nhờ đó, thành phố cảng biển đã sản sinh ra các lễ hội giao thoa văn hóa giữa phương Tây và nét truyền thống. Nagasaki Kunchi là một trong những lễ hội mang điểm nhấn đặc sắc đó.

Những thương thuyền nước ngoài được tái hiện trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: ANA.

Những thương thuyền nước ngoài được tái hiện trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: ANA.

Các lễ hội vào mùa thu được tổ chức trong ngày 9 sẽ được gọi là O-Kunichi. Mùa thu cũng là mùa nông dân dâng các sản vật ngon nhất của mình cho thần linh để tỏ lòng biết ơn. Vật phẩm dâng cho thần linh được gọi là “Kunichi” đồng âm với cách gọi ngày 9. Từ “Kunichi” trong lễ hội Nagasaki Kunchi được cho là bắt nguồn từ đó.

Lễ hội tổ chức từ ngày 7 tới 9 của tháng 10 hàng năm. Hoạt động đặc sắc nhất là các điệu múa được giao cho khu phố đảm nhận. Để xem lại cùng một điệu múa du khách phải chờ đến 7 năm sau vì chúng được thay đổi theo từng năm. Hoạt động này bắt nguồn từ việc dâng điệu múa lên thần linh tại đền thờ Suwa của 2 vũ nữ.  

Các điệu múa trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: 

Các điệu múa trong lễ hội Nagasaki Kunchi. Ảnh: Tsunagu Japan.

Khi đến với lễ hội, du khách sẽ chứng kiến hoạt động diễu hành, rước kiệu thần đến Otabi-sou (rước thần xuống núi). Ngoài các điệu múa truyền thống, du khách không thể bỏ qua các điệu tái hiện lịch sử giao thương của Nhật Bản với Trung Quốc và Hà Lan.

Với du khách Việt Nam, Go-shuinsen là điệu múa không thể bỏ qua khi đến với lễ hội Nagasaki Kunchi. Điệu múa tái hiện cảnh thương nhân Sotaro Araki đưa công chúa Ngọc Hoa về quê hương. Môi lương duyên này được người Nhật trân trọng và công chúa cũng được người Nhật gọi với cái tên trìu mến là Anio – san.

Đến Nagasaki, du khách có thể ghé thăm những điểm du lịch nổi tiếng như đài tưởng niệm hòa bình, quần đảo Kujuku, cao nguyên Shirakine…

Diễu hành rước kiệu thần trong ngày lễ Nagasaki Kunchi. Ảnh: Nozomi Edu.

Diễu hành rước kiệu thần trong ngày lễ Nagasaki Kunchi. Ảnh: Nozomi Edu.

Japanese tribe worshiping nature

As the first ethnic group living in Hokkaido, the Ainu people still retain their own cultural identities from ancient times to modern life.

The Ainu people have lived in Hokkaido since ancient times. They immerse themselves in nature, always feel grateful for what nature offers, thereby forming a separate culinary culture full of identity.

They assumed that the food was given by the gods, should be grateful for that and only harvested to a sufficient extent.

Ohaw món ăn truyền thống của người Ainu được chế biến từ rượu gạo, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, hành lá, các loại rong biển...

Ohaw traditional Ainu dishes are made from rice wine, potatoes, carrots, white radish, scallions, seaweed …

Ohaw is a traditional dish of the Ainu people made from rice wine, potatoes, carrots, white radish, scallions, seaweed … Photo provided by Hokkaido province.

The Ainu people first inhabited a large area from the north-eastern part of Japan to Hokkaido (Ezogashima island), Sakhalin (Karafuto), and Chishima Islands between the 17th and 19th centuries. called “Ainu Moshiri” meaning “the land where people live”.

Ainu culture is still inherited to this day. Visitors can find such culture everywhere in Hokkaido. Easy to find are the restaurants to enjoy the unique culinary culture of the Ainu people.

Miss Teen Phương Dung quảng bá cho văn hoá Ainu tại Lễ hội Việt  Nhật ở Công viên 23-9 ngày 19/1. Ảnh: Trọng Lực.

Miss Teen Phuong Dung promotes Ainu culture at the Vietnam-Japan Festival in the Park September 23, January 19. Photo: Gravity.

Latest, within the framework of the 6th Vietnam – Japan Festival (January 19 – 20), at booth B8, zone B, 23/9 Park, District 1 (HCMC) has recreated the space of the office. Ainu chemistry. Here, visitors learn about traditional Ainu culture through exhibits from utensils, costumes with monyou patterns meaning exorcism, see the instruction on wearing ruunpe costumes …

Viewers were very surprised with precious handicrafts such as a tray with unique wood carving art; socks, gloves with traditional pattern and hand embroidery …

Vũ điệu Ainu cổ.

The ancient Ainu dance.

The ancient Ainu dance. Photo provided by Hokkaido prefecture.

Introducing Ainu culture at this Vietnam – Japan Festival, Hokkaido prefecture wants Vietnamese people to know more about Ainu culture and traditions. Expected in April 2020, Ainu National Park and Museum (UPOPOY) will open in Shiraoi, Hokkaido. UPOPOY’s grand opening will take place right before the Tokyo Summer Olympics and the Paralympic Games.

UPOPOY is the first national museum of Ainu culture in Japan. Hokkaido is expected to be a new destination for provincial tourism, and as a place to inherit and develop the Ainu culture.

Bộ tộc tôn sùng thiên nhiên ở Nhật Bản

Là dân tộc đầu tiên sinh sống tại Hokkaido, người Ainu vẫn giữ những bản sắc văn hóa riêng của mình từ xưa đến cuộc sống hiện đại.

Người Ainu từ xa xưa đã sinh sống tại Hokkaido. Họ hòa mình vào thiên nhiên, luôn cảm thấy biết ơn vì những gì thiên nhiên ban tặng, từ đó hình thành nền văn hóa ẩm thực riêng biệt đầy bản sắc.

Họ cho rằng thức ăn do các vị thần ban cho, nên biết ơn vì điều đó và chỉ thu hoạch ở mức độ vừa đủ dùng.

Ohaw món ăn truyền thống của người Ainu được chế biến từ rượu gạo, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, hành lá, các loại rong biển...

Ohaw là món ăn truyền thống của người Ainu được chế biến từ rượu gạo, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, hành lá, các loại rong biển… Ảnh do tỉnh Hokkaido cung cấp.

Người Ainu sinh sống đầu tiên ở vùng rộng lớn từ phía bắc khu vực Đông Bắc Nhật Bản cho đến Hokkaido (đảo Ezogashima), Sakhalin (Karafuto), quần đảo Chishima khoảng thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Riêng quần đảo Chishima còn được gọi là “Ainu Moshiri” với ý nghĩa “vùng đất con người sinh sống”.

Nền văn hóa Ainu vẫn được tiếp tục kế thừa cho đến ngày nay. Du khách có thể bắt gặp nền văn hóa ấy ở khắp nơi tại Hokkaido. Dễ dàng tìm được là những nhà hàng để thưởng thức văn hóa ẩm thực độc đáo của người Ainu.

Miss Teen Phương Dung quảng bá cho văn hoá Ainu tại Lễ hội Việt  Nhật ở Công viên 23-9 ngày 19/1. Ảnh: Trọng Lực.

Miss Teen Phương Dung quảng bá cho văn hoá Ainu tại Lễ hội Việt – Nhật ở công viên 23/9 ngày 19/1. Ảnh: Trọng Lực.

Mới nhất, trong khuôn khổ Lễ hội Việt – Nhật lần thứ 6 (ngày 19 – 20/1), tại gian hàng B8, khu B, Công viên 23/9, quận 1 (TP HCM) đã tái hiện không gian của văn hoá Ainu. Ở đây, khách tham quan được biết về văn hoá truyền thống Ainu qua các hiện vật được trưng bày từ đồ dùng, trang phục với hoa văn monyou mang ý nghĩa trừ tà, xem hướng dẫn mặc trang phục ruunpe…

Người xem rất bất ngờ với những món đồ thủ công mỹ nghệ quý giá như cái mâm với nghệ thuật khắc gỗ độc đáo; tất, găng tay với hoa văn và thêu tay truyền thống…

Vũ điệu Ainu cổ.

Vũ điệu Ainu cổ. Ảnh do tỉnh Hokkaido cung cấp.

Giới thiệu văn hoá Ainu trong Lễ hội Việt – Nhật lần này, tỉnh Hokkaido mong muốn người Việt Nam biết nhiều hơn về văn hoá, truyền thống Ainu. Dự kiến vào tháng 4/2020, Công viên và Bảo tàng quốc gia Ainu (National Ainu Museum and Park – UPOPOY) sẽ mở tại Shiraoi, Hokkaido. Sự kiện khai trương UPOPOY sẽ diễn ra ngay trước thềm Thế vận hội Olympic mùa hè và Thế vận hội dành cho người khuyết tật (Paralympic) Tokyo.

UPOPOY là bảo tàng quốc gia đầu tiên về văn hóa Ainu tại Nhật Bản. Tỉnh Hokkaido kỳ vọng đây sẽ là một điểm đến mới của du lịch tỉnh, và là nơi kế thừa và phát triển nền văn hoá Ainu.

Smart robots can teach sutras in Japan

The robot has a human-like face and some movement, with the ability to speak to share Buddhist teachings.

According to Japantimes, a robot called Mindar, which can simply explain the Buddha’s teachings, was introduced at Kodaiji Temple in Kyoto on February 23. Mindar gave a speech on the Bat Nha Tam Kinh in Japanese on the background music with English and Chinese subtitles being projected on the wall.

Robot Mindar. Ảnh Sohu

Robot Mindar. Photo Sohu

Smart Robot Mindar. Photo: Sohu

“We want more people to come see the robot to think about the nature of Buddhism,” said Tensho Goto, the temple’s manager, expressing his hope that robots will help those who have no ties to Buddhism. pay more attention to religion.

Mindar is about 195 cm tall and weighs 60 kg, made by the company A-Lab, based in Tokyo. The robot is made mainly of aluminum, the face and hands are made of silicone. The upper part of its neck, arms and body are rotatable. The left eye is equipped with a camera. Although the robot has a beautiful face and looks like a human, its body still reveals mechanical details. According to Mr. Goto, this has its own religious implications as well as stimulates the imagination of visitors.

The cost of robot research and development is about 100 million yen (equivalent to 20 billion dong). In the future, the robot will be upgraded to have the ability to recognize faces and movement, as well as perform more complex actions. Mindar will be shown to the public from March 8.

Robot thông minh có thể giảng kinh ở Nhật Bản

Người máy có khuôn mặt và một số cử động giống người, với khả năng diễn thuyết để chia sẻ giáo lý đạo Phật.

Theo Japantimes, robot có tên Mindar, có thể giải thích những lời dạy của Đức Phật một cách đơn giản, đã được giới thiệu tại chùa Kodaiji ở Kyoto ngày 23/2. Mindar đã có bài phát biểu về Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Nhật trên nền nhạc với phụ đề tiếng Anh và tiếng Trung được chiếu kèm theo trên tường.

Robot Mindar. Ảnh Sohu

Robot thông minh Mindar. Ảnh: Sohu

“Chúng tôi muốn nhiều người đến xem robot để suy nghĩ về bản chất của Phật giáo”, ông Tensho Goto, quản lý ngôi đền nói và bày tỏ hy vọng robot sẽ giúp những người không có mối liên hệ nào với Phật giáo có thể dành sự quan tâm hơn đến tôn giáo.

Mindar cao khoảng 195 cm và nặng 60 kg, được chế tạo bởi công ty A-Lab, có trụ sở tại Tokyo. Robot được làm chủ yếu bằng nhôm, riêng mặt và tay làm bằng silicone. Phần trên của cổ, cánh tay và cơ thể của nó có thể xoay được. Mắt trái  được trang bị một camera. Tuy robot có khuôn mặt đẹp và trông giống con người, cơ thể của nó vẫn để lộ các chi tiết máy móc. Theo ông Goto, điều này có hàm ý riêng mang ý nghĩa tôn giáo cũng như kích thích trí tưởng tượng của du khách đến xem.

Chi phí nghiên cứu và phát triển robot khoảng 100 triệu yên (tương đương 20 tỷ đồng). Trong tương lai, robot này sẽ được nâng cấp để có thêm khả năng nhận diện khuôn mặt và chuyển động, cũng như thực hiện các hành động phức tạp hơn. Mindar sẽ được trình chiếu trước công chúng từ ngày 8/3.

Japanese incense Shoyeido

The product is made from herbal ingredients and can be used in many places.

In the early 18th century, Mr. Rokubei Moritsune Hata – the “father” of the Shoyeido brand, began to incorporate the techniques of making incense learned from working at the Imperial Palace Kyoto. Finally, he came up with a scent that people enjoy not just limited to royalty. Twelve generations later, the Hata family continues to create different scents. Among them, Shoyeido is considered to be one of the most natural and high quality scents.

huong-shoyeido-cua-nhat-ban

huong-shoyeido-crab-nhat-ban

Some typical products distributed in the Vietnamese market are rose, lavender, ocean, vanilla, Japanese sencha …

Shoyeido’s blending process is an art. Advanced artisans have drawn the secrets of the centuries to create fragrant masterpieces. They carefully process quality, calculate the balance and proportions of each carefully selected natural ingredient. The slightest difference in the quantity or quality of any ingredient can greatly affect the results. Only the finest raw materials are used. The delicate scent awakens all senses to enjoy and the Japanese call that art mon-koh or “scent”.

huong-shoyeido-cua-nhat-ban-1

huong-shoyeido-crab-nhat-ban-1

A traditional pilgrimage ceremony in Japan.

Shoyeido products are one of the favorite scents of many temples in Japan thanks to their blending formula according to modern natural solutions to create a relaxing space in the home. Whether it is at work, yoga or meditation, or simply in a bathroom or spa, the pure scent of Shoyeido makes the atmosphere more pleasant.

For the health of the consumer and for the sake of relaxation in mind, Shoyeido is made from herbal ingredients. Shoyeido is sold in health food stores, souvenir shops, bookstores, vitamin stores, pharmacies, spas and salons.