Đàn Shamisen nhạc cụ truyền thống đặc thù của Nhật Bản

Đàn Shamisen – nhạc cụ truyền thống đặc thù của Nhật Bản chỉ có 3 dây, được chơi với một miếng gẩy đàn gọi là bachi. Khi chơi đàn shamisen, người chơi dùng bachi vừa gẩy dây đàn vừa đánh lên thân đàn. Lối chơi này giúp tạo ra âm thanh rất hay cho tiếng đàn Shamisen.
Ngoài ra, bí mật của tiếng đàn còn nằm ở cấu tạo của loại nhạc cụ này. Một chiếc đàn shamisen cơ bản chia làm 2 phần gồm cổ đàn được gọi là “Sao” và thân đàn gọi là “Do”. Cổ đàn chủ yếu được làm từ gỗ quý của cây Koki, một loại cây mọc trên dãy núi Himalaya ở Ấn Độ. Gỗ koki rất cứng, nhờ vậy, nó không làm cho tiếng đàn bị lệch âm.
Ngoài ra, bí mật của tiếng đàn còn nằm ở cấu tạo của loại nhạc cụ này. Một chiếc đàn shamisen cơ bản chia làm 2 phần gồm cổ đàn được gọi là “Sao” và thân đàn gọi là “Do”. Cổ đàn chủ yếu được làm từ gỗ quý của cây Koki, một loại cây mọc trên dãy núi Himalaya ở Ấn Độ. Gỗ koki rất cứng, nhờ vậy, nó không làm cho tiếng đàn bị lệch âm.
Shamisen có chiều dài tương tự đàn guitar, nhưng so với guitar, cổ của đàn shamisen mỏng hơn và không có phím. Ba sợi dây đàn shamisen có kích cỡ khác nhau, từ trái sang phải dây lớn nhất gọi là ichi no ito, kế đến là ni no ito và cuối cùng là san no ito. Dây đàn thường được làm bằng tơ lấy từ kén của con tằm. Người ta dùng tơ của 10 cái kén tằm để se thành 1 sợi dây nhỏ. Những sợi dây nhỏ này tiếp tục được kết lại với nhau để tạo ra dây đàn. Mỗi sợi dây đàn nhỏ nhất san no ito cần đến 600 cái kén tằm, trong khi đó, dây đàn có kích thước lớn nhất ichi no ito phải tốn đến 3 ngàn cái kén. Dây đàn giữ vai trò khá quan trọng trong việc quyết định độ sâu lắng của tiếng đàn. Từ xưa đến nay, màu vàng là màu chủ đạo của dây đàn shamisen, còn lý do tại sao chúng có màu vàng vẫn là một bí ẩn.
Phần thứ 2 trên cây đàn shamisen là “Do”, tức thân đàn. Thân đàn hình chữ nhật, mặt trước và sau thân đàn được bọc da động vật giống như mặt trống. Thân đàn được ghép từ 4 mảnh gỗ giáng hương. Ở mặt trong của những mảnh gỗ, người ta đục vô số đường gân lồi lõm, tạo sự dao động của không khí bên trong thân đàn.

Một bộ phận có tên Sawari nằm ở phần đỉnh của cổ đàn, nó góp phần quyết định âm thanh đặc trưng của tiếng đàn shamisen. Sawari là gờ nổi có một cái rãnh nhỏ. Trong khi 2 sợi dây đàn ni no ito và san no ito nằm vắt ngang qua gờ này thì dây đàn lớn nhất ichi no ito đi qua rãnh nhỏ. Từ vị trí đó, dây đàn này có thể bật lên tạo ra âm thanh độc đáo khi người ta gẩy đàn shamisen.
Miếng gảy đàn được làm bằng nhiều vật liệu, có thể là gỗ, ngà voi, nhựa, thậm chí là mai rùa. Đàn shamisen có nhiều loại, tùy tiết mục trình diễn mà người ta sử dụng loại đàn khác nhau. Tiếng đàn có thể mô phỏng âm thanh của tự nhiên như tiếng gió thổi, nước chảy hay biểu lộ tâm trạng của con người.

Dựa vào kích thước to nhỏ của cổ đàn mà người ta phân loại đàn shamisen. Có 2 loại đàn shamisen phổ biến là Hosozao và Futozao. Hosozao có nghĩa là cổ đàn mảnh, là loại đàn nhỏ nhất trong gia đình shamisen. Âm thanh của nó rất êm tai. Futozao có nghĩa là cổ đàn to, âm thanh phát ra từ chiếc đàn này mạnh mẽ và lớn hơn nhiều so với đàn hosozao. Đàn hosozao được dùng để đệm cho thể loại nhạc Nagauta hay còn gọi là Trường ca và trong các buổi trình diễn tuồng Kabuki. Trong khi đó, đàn Futozao thích hợp với sân khấu kịch rối Bunraku.

Âm thanh của đàn Shamisen được người Nhật yêu thích trong nhiều thế kỷ qua và nó đã góp mặt trong hầu hết các loại hình nghệ thuật truyền thống của đất nước này.

Let’s Cook at Home in Quarantine Period: Crisp And Juicy Japanese unforgetable curry bread

internet

Surely those who love Japanese food have also enjoyed Japanese curry at least once, right? So have you ever known this curry pies? A bread with a crunchy crust and inside is a layer of meat with a rich curry sauce, ready to “beat” anyone with just a bite. To make curry sandwich we need:

internet
internet

Material

https://www.justonecookbook.com/

Sandwich: 5 pieces
Ground beef: 50 grams
Roux curry spice: 10 grams (you can find it in Japanese specialty stores)
Chopped onions: 1 tbsp
Ginger finely chopped: ½ teaspoonful
Tomato sauce: 1 teaspoon
Breadcrumbs
Chicken Eggs: 1 fruit

How to make it?

1.Mix the fillings (beef, onion, minced ginger, tomato sauce and curry) into a bowl, add 20ml of hot water and mix well. Then microwave for 3 minutes.

https://www.justonecookbook.com/

2.Sandwiches cut the hard edges and then rolled flat so that after rolling with the filling, frying does not absorb much oil.

https://www.justonecookbook.com/

3.Divide evenly into 5 sections, each to the first half of the bread and roll. Don’t forget to spread some egg on the edge of the bread to make it stickier

https://www.justonecookbook.com/

4.Dip the bread into the egg and then dip it into breadcrumbs.

https://www.justonecookbook.com/

5. Heat oil and oil.

https://www.justonecookbook.com/

6. Take the cake and drain on the blotting paper to drain. Then enjoy

internet

Tự vào bếp mùa dịch: Giòn rụm bên ngoài, đậm đà bên trong với chiếc bánh sốt cà ri – Karepan

Chắc hẳn với những ai yêu thích đồ ăn Nhật Bản cũng đã từng thưởng thức món cà ri Nhật ít nhất là một lần phải không? Vậy bạn đã từng biết đến món bánh nhân cà ri này chưa? Món bánh mì với lớp vỏ ngoài giòn rụm và bên trong là lớp nhân thịt kèm sốt cà ri đậm đà thơm phức sãn sàng “hạ gục” bất kì ai với chỉ một miếng cắn. Để thực hiện món bánh kẹp cà ri chúng ta cần:

Nguyên Liệu

Dun

Dùng bánh mì Sandwich : 5 miếng (nếu không có nhiều thời gian để nhào bột mì)
Thịt bò xay nhuyễn: 50 gram
Gia vị cà ri Roux: 10 gram (bạn có thể tìm mua ở các cửa hàng chuyên bán đồ Nhật)
Hành tây đã thái nhỏ: 1 muỗng canh
Gừng băm nhỏ: ½ thìa café
Sốt cà chua: 1 thìa café
Vụn bánh mì
Trứng gà: 1 quả

Thực Hiện

1.Trộn phần nhân bánh (thịt bò, hành tây, gừng băm, sốt cà chua và cà ri) vào bát, thêm 20ml nước nóng rồi trộn đều. Sau đó cho vào lò vi sóng quay trong 3 phút.

2. Bột mì/ Bánh sandwich cắt phần rìa cứng sau đó cán dẹt để sau khi cuộn với nhân, lúc chiên không bị hút nhiều dầu.

3. Chia đều nhân thành 5 phần, mỗi phần cho vào nửa đầu bột hoặc bánh mì rồi gói tròn lại. Đừng quên phết thêm ít trứng vào mép bánh mì để dính hơn nhé!

HÌnh minh họa

4. Nhúng bánh vào trứng rồi sau đó nhúng vào vụn bánh mì.

HÌnh minh họa

5. Đun nóng dầu ăn và chiện ngập dầu.

HÌnh minh họa

6. Vớt bánh để lên giấy thấm dầu cho ráo. Sau đó thưởng thức

GỐM SỨ NHẬT BẢN VÀ GỐM SỨ VIỆT NAM

Nghề thủ công truyền thống ở hai nước Nhật Bản và Việt Nam, đặc biệt là nghề gốm sứ có từ rất lâu đời. Từ buổi sơ khai, để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, người dân đã chế tạo ra các sản phẩm phục vụ đời sống của mình. Theo tiến trình của lịch sử, cả hai nước đã vận dụng kĩ thuật sơ khai của nước mình kết hợp với tiếp thu những tiến bộ của nước ngoài để đưa ra những sản phẩm tinh túy hơn, chất lượng tốt hơn. Tuy cùng tiếp nhận ảnh hưởng kĩ thuật của Trung Quốc và các nước khác trong khu vực, các nghệ nhân của hai nước đã tìm được con đường phát triển riêng phù hợp với đặc điểm của nước mình. Với quy trình sản xuất cũng như kĩ thuật khác nhau tạo ra các dòng sản phẩm khác biệt nhưng qua các sản phẩm gốm sứ Nhật – Việt vẫn cho thấy tâm hồn và lòng rung cảm cái đạo đẹp của hai dân tộc đời xưa rất gần gũi nhau. Góp phần tìm hiểu sâu thêm về đề tài gốm sứ Việt Nam và Nhật Bản, bài viết phân tích, so sánh một số đặc trưng cơ bản của gốm sứ hai nước.

1. Gốm sứ Nhật Bản và một số loại điển hình

1.1. Khái lược về gốm sứ Nhật Bản

Từ thời cổ đại với kĩ thuật thô sơ, những người thợ gốm trên quần đảo Nhật Bản đã cung cấp những sản phẩm tiện ích nhất cho nhu cầu cuộc sống lúc bấy giờ như chum, vại… Theo các kết quả nghiên cứu thì gốm đã xuất hiện tại Nhật Bản rất sớm, khoảng thiên niên kỷ thứ XIV trước công nguyên. Đồ gốm sơ kỳ ở Nhật Bản được gọi là gốm Jomon (thừng văn) vì đồ gốm thời kỳ này đều có trang trí hoa văn hình dây thừng cuốn. Người ta tạo ra sản phẩm bằng cách cuộn những vòng đất sét chồng lên nhau để tạo hình, rồi vuốt phẳng bằng tay. Sau cùng mới trang trí hoa văn quấn thừng. Hình dáng phổ biến là dạng góc cạnh, đáy nhọn, có tay cầm hình đầu thú.

Đến thời Yayoi, kĩ thuật canh tác lúa và những loại đồ gốm mới góp phần quan trọng trong cuộc sống, được dùng để đựng đồ, nấu nướng và ăn uống. Gốm thời kì này cũng được nung ở nhiệt độ thấp, không tráng men. Màu chủ đạo là màu đỏ sẫm, bên cạnh đó còn có màu đỏ nhạt.

Khi kĩ thuật gốm từ Triều Tiên du nhập vào Nhật, người Nhật biết đến sự tồn tại của bàn xoay. Chiếc bàn xoay thô sơ đầu tiên ra đời, gốm liền mảng đã từng bước thay thế cho việc cuộn vòng đất sét. Gốm Hajibe, hay còn gọi là đồ sành được tìm thấy chủ yếu trong các gò mộ lớn, đó là những tượng đất nung không tráng men.

Đồ gốm Nhật Bản bắt đầu chịu ảnh hưởng của gốm sứ Trung Hoa vào thời Heian. Nhiều loại gốm men xanh nổi tiếng được du nhập vào thời này, song đồ gốm thời này không có nhiều tiến bộ mà chỉ dừng lại ở mức độ sản xuất đồ gia dụng. Khoảng giữa thế kỷ VIII, qua nhiều năm tích lũy kinh nghiệm và học hỏi, những người làm đồ gốm Nhật Bản bắt đầu biết cách tráng men, nung đất sét ở nhiệt độ tương đối thấp. Một số lớp men tráng bằng kĩ thuật này có màu xanh lục đậm. Trong quá trình áp dụng và cải tiến kĩ thuật làm đồ gốm, những người làm đồ gốm phát hiện ra kĩ thuật tráng men tro tự nhiên và áp dụng vào trong sản xuất.

Khi Trà đạo thịnh hành đã kéo theo đồ gốm phục vụ cho các nghi lễ trà cũng rất phát triển. Điển hình là đồ gốm Shino đã trở thành sản phẩm nổi tiếng cho vẻ đẹp giản dị với lớp men tráng dày, có vân rạn, hoa văn mộc mạc. Thời gian sau, nhiều loại gốm sứ mới ra đời như dòng gốm Raku, mang đậm ảnh hưởng của Trà đạo.

Cùng với sự phát triển tột bậc của kĩ thuật, bước tiến bộ vượt bậc của gốm sứ là đã chế tạo được sản phẩm nhiều màu sắc và nước men mới đạt đến độ tinh xảo rực rỡ tới mức người ta nói rằng những tiêu bản đẹp nhất về màu sắc của gốm chỉ có thể tìm thấy ở gốm sứ thời Edo của Nhật Bản(1).

Trong suốt thế kỉ XVII, việc buôn bán đồ sứ quan đã phát triển, cung cấp cho người Châu Âu giàu có những sản phẩm màu sắc và kì lạ để trang trí cho các lâu đài và cung điện của họ. Đồ sứ Nhật Bản lúc đầu được người Châu Âu tìm kiếm với mục đích để bù vào sự giảm sút về sản lượng đồ sứ Trung Quốc. Giữa thế kỉ XVII và đầu thế kỉ XVIII, đồ gốm sứ Trung Quốc lại lấn át, song nó đã để lại một di sản về kiểu dáng có ý nghĩa lớn lao trong lịch sử thiết kế mẫu gốm sứ của người Châu Âu, thậm chí đã xuất hiện mốt trang trí nội thất kiểu Nhật Bản. Đồ sứ Nhật Bản đã hấp dẫn người Châu Âu bởi màu sắc, kĩ thuật gia công tỉ mỉ và công phu mà họ chưa từng thấy trước đây khi ngắm nhìn nó, đã để lại cho phương Tây một cảm nhận sâu sắc về nghệ thuật thủ công truyền thống Nhật Bản.(2)

1.2. Một số loại gốm sứ điển hình của Nhật Bản

a. Gốm sứ Arita: Tỉnh Arita là trung tâm sản xuất sứ đầu tiên và lớn nhất ở Nhật Bản. Thời kì này, sứ Arita chỉ là các sản phẩm thô sơ, nhưng sau đó, các trung tâm sản xuất sứ trắng ra đời đánh dấu một kỉ nguyên mới. Sản phẩm sứ Arita được xuất khẩu sang Châu Âu qua cảng biển Imari nên người phương Tây gọi chúng là đồ sứ Imari. Thời gian đầu các nghệ nhân chỉ chú trọng vào đồ sứ có nhuộm màu (sometuke). Cuối thế kỉ XVII, các sản phẩm trang trí bằng các hình ảnh có màu sắc khác nhau đã được sản xuất. Từ đó ở Arita có 3 dòng sứ lớn là Koimari (Imari cổ), Kakiemon (sứ sản xuất tại Kakiemon) và Nabeshima (sứ được sản xuất tại Nabeshima). Lúc này Trung Quốc (nhà Minh) đang loạn chiến nên Nhật Bản đã thay thế Trung Quốc đưa sản phẩm xuất khẩu sang Châu Âu. Sang thế kỉ XVIII (giữa thời Edo) cuộc sống của nhân dân ổn định, nhu cầu trong nước được nâng cao nên cái tên sứ Arita đã được biết đến rộng rãi. Gốm sứ Arita có những đặc trưng như sau:

– Sứ Imari sơ kì và Imari cổ: Giai đoạn đầu, sứ Imari nhận ảnh hưởng từ Triều Tiên nên phổ biến là các sản phẩm thô sơ. Thời gian sau nhận ảnh hưởng từ Trung Quốc, sứ Koimari đã ra đời. Các nghệ nhân đã sử dụng các họa tiết thiên về màu đỏ, nhưng sau đó đã tìm ra họa tiết riêng cho sản phẩm của mình. Dần dần có nhiều họa tiết khác như là màu vàng ánh kim, các sợi vàng được đưa vào trang trí trên các sản phẩm sứ và ngày càng được ưa chuộng.

– Kakiemon: Thời gian đầu sứ Kakiemon cũng nhận ảnh hưởng từ Trung Quốc, nhưng sau đã đưa các họa tiết riêng mang đặc trưng Nhật Bản vào trong sản phẩm của mình. Mầu đặc trưng của dòng sứ này là mầu trắng sữa. Các nghệ nhân đã trộn 3 loại đá để tạo ra màu trắng đặc trưng này nên khi nhìn vào các họa tiết người ta vẫn có cảm giác ấm áp. Vì thế sản phẩm này khác hoàn toàn so với sứ trắng.

– Nabeshima: Mầu đặc trưng của sứ Nabeshima là đỏ, vàng, xanh lục và điều khác các sản phẩm khác là hay dùng các họa tiết hay hình ảnh chìm. Dòng sứ Nabeshima có 3 phương pháp chế tác truyền thống khác nhau là Ainabeshima, Sabinebashima và Rurinabeshima.

Đặc trưng của sứ Imari là kĩ thuật vẽ nhiều màu làm cho hình ảnh  trên mặt sứ trắng cực kì sắc nét. Họa tiết của gốm sứ Arita có màu sắc đa dạng như đỏ, xanh, vàng thêu kim tuyến, hình hoa lá hay động vật. Sản phẩm này được đánh giá rất cao(3).

b. Gốm Mino: Gốm Mino có lịch sử khá lâu đời, cách đây khoảng 1300 năm được sản xuất tại tỉnh Gifu. Đầu tiên, kĩ thuật gốm Sue (một loại gốm không men) được du nhập từ Triều Tiên vào. Đầu thời Heian, một loại gốm có men gọi là Hakuji đã được nung trên cơ sở cải tiến kĩ thuật gốm Sue. Từ đó, nhiều loại gốm được sản xuất tại Nhật Bản. Từ thời Momoyama cho đến đầu thời Edo, cùng với sự phát triển của Trà đạo, nhiều sản phẩm theo ý tưởng độc đáo của các trà sư đã ra đời. Đặc trưng của gốm sứ Mino là tồn tại từ thời Muromachi đến thời Momoyama đã phát sinh ra 4 dòng sản xuất gốm nhỏ là: Kiseto, Setoguro, Shino và Oribe.

–            Kiseto (seto vàng): sử dụng lớp men vàng bóng và các họa tiết như cỏ cây hoa lá được vẽ lên trên bề mặt của sản phẩm.

–            Setoguro: là tên gọi cho sản phẩm được tráng men sắt. Nung xong, các nghệ nhân sẽ đưa sản phẩm vào ngay nước lạnh để đạt được màu đen tự nhiên.

–            Shino: Trước đây gốm Shino được biết đến với tư cách là sản phẩm tráng men trắng, hoa cỏ thiên nhiên là họa tiết chủ đạo. Gốm Shino có nhiều chủng loại, trong đó những loại không có họa tiết hoa trang trí thì được gọi là Muzishino (gốm trơn), còn sản phẩm có họa tiết trang trí được gọi là Eshino (gốm có họa tiết). Ngoài ra còn có các sản phẩm Nezumishino (shino xám bạc) và Akashino (Shino đỏ).

–            Oribe: Người ta biết đến gốm Oribe là loại gốm được tráng men xanh và được gọi là Aoioribe. Trên bề mặt sản phẩm một phần được tráng men xanh, phần còn lại được vẽ bằng mực có chứa thành phần ôxi sắt. Những sản phẩm được tráng hoàn toàn bằng men xanh được gọi là Souoribe. Ngoài ra, các nghệ nhân còn kết hợp 2 loại đất sét trắng và đất sét đỏ để tạo ra sản phẩm và nó được gọi là Narumioribe.(4)

2. Gốm sứ Việt Nam và một số loại điển hình

2.1. Khái lược về gốm sứ Việt Nam

Lịch sử đồ gốm Việt Nam đã bắt đầu từ những món đồ bằng đất sét trộn bột vỏ sò không tráng men, dùng khuôn bằng giỏ đan, màu nâu đậm hay nâu nhạt. Nét văn minh sơ khởi nhất của con người là chế tác ra đồ gốm, bởi vì không có chúng để nấu nướng, cất giữ, ăn uống thì nền văn minh không hình thành. Chính trong quá trình chế tác đồ gốm, con người đã tích luỹ được những kinh nghiệm sống và thể hiện trong các sản phẩm của mình tạo nên các nền văn hoá nổi bật như văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá Ðông Sơn. Dù di tích còn lại rất ít, nhưng đồ gốm Việt Nam trong thời này đã cho thấy sắc thái của một nền văn hóa riêng biệt.

Thế kỉ XI, sau khi thoát khỏi sự đô hộ của Trung Hoa, những người thợ gốm ở miền bắc Việt Nam đã phát triển hàng hóa gốm sứ mang sắc thái dân tộc rõ nét. Từ thế kỉ XIII – XIV, khi đồ gốm Việt Nam bắt đầu cạnh tranh với hàng hóa xuất khẩu Trung Hoa trên thị trường quốc tế thì mới có ảnh hưởng từ việc du nhập thêm kỹ thuật và phong cách Trung Hoa. Sứ thanh lam Việt Nam có sức cạnh tranh rất cao, đặc biệt trong khu vực Đông nam Á. Đồ gốm miền bắc Việt Nam trong thời kì này cũng cho thấy những nét ảnh hưởng của Hồi giáo, điển hình như những mâm khay lớn.

Hiện nay có rất nhiều làng gốm nổi tiếng ở Việt Nam, trong đó phải kể đến gốm Bát Tràng (Hà Nội), gốm Đông Triều (Quảng Ninh), gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), gốm Sài Gòn, gốm Bình Dương, gốm Biên Hòa (Đồng Nai). Sản phẩm gốm của Việt Nam cũng rất phong phú, từ những vật nhỏ như lọ đựng tăm, gạt tàn thuốc lá…đến những sản phẩm cỡ lớn như lọ độc bình, đôn voi. Họa tiết trên sản phẩm được gắn liền với những hình ảnh quen thuộc trong đời sống như chú bé thổi sáo trên lưng trâu, cây đa cổng làng, mái chùa, hồ sen…Hiện nay, sản phẩm gốm Việt Nam đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới và thương hiệu gốm Việt Nam cũng đã khẳng định được vị trí của mình.

2.2. Một số loại gốm sứ Việt Nam điển hình

a. Gốm Chu Đậu: Cuối thế kỉ XIV, là thời kì phát triển cao nhất của đồ gốm Việt Nam, với nhiều loại men và hoa văn độc đáo, loại đồ gốm mà ngày nay chúng ta được biết dưới tên “Ðồ gốm Chu Ðậu”. Tiếc thay, nền kĩ thuật và mĩ thuật này đã tàn lụi vào đầu thế kỉ XVII sau những trận chiến dữ dội thời Lê Mạc. Gốm Chu Ðậu được coi là gốm đạo, gốm bác học. Các sản phẩm gốm in đậm dấu ấn những giá trị nhân văn của Phật giáo, Nho giáo. Nhờ những hoa văn trang trí rất độc đáo, khiến cho gốm Chu Ðậu không thể lẫn với các loại gốm khác. Có thể thấy gốm Chu Đậu có những đặc trưng sau:

– Về kĩ thuật tạo hình: Gốm Chu Ðậu được làm chủ yếu vuốt trên bàn xoay, một số khác được làm bằng khuôn in nên hình dáng các sản phẩm rất phong phú. Các sản phẩm của gốm Chu Ðậu hết sức phong phú về loại hình: nhiều nhất là các loại bát to, bát nhỏ, đĩa nhiều kích cỡ, chén, bình (thường gọi là bình Tỳ bà), lọ, tước uống rượu, bát ba chân, liễn, hộp sứ, lư hương… Ðiều đáng lưu ý là hầu hết sản phẩm bát, đĩa, lọ, bình đều có miệng loe ra phía ngoài, thân bầu bĩnh, một số bát có chân cao rất đặt trưng của đồ gốm cuối thời Trần đầu thời Lê.

– Về trang trí: Các họa tiết trên bình cổ thường là cây cỏ, hoa lá, chim muông, được cách điệu. Cũng có bình vẽ các nhân vật thần thoại, như Thánh Gióng, Thạch Sanh… Các nghệ nhân Chu Ðậu dùng các họa tiết truyền thống như: ngỗng ấp, hoa cúc dây, hoa đào nhưng nét thì mỗi người mỗi vẻ, các hoa văn, họa tiết luôn hài hòa với dáng gốm. Trong một nét vẽ đã có sắc độ, có đậm có nhạt, kể cả nét bệt bút và công bút đều phải có sắc độ.

– Về Men gốm: Men gốm Chu Ðậu rất phong phú như men ngọc, men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn màu xanh và men trắng trong với hoa văn ba màu vàng, đỏ nâu và xanh lục(5).

b.  Gốm sứ Bát Tràng

Có nhiều giả thuyết về sự ra đời của làng gốm Bát Tràng, trong đó có một giả thuyết đáng được quan tâm là Làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời hậu Lê, từ sự liên kết chặt chẽ giữa 5 dòng họ làm gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát như Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm với họ Nguyễn (Nguyễn Ninh Tràng) ở đất Minh Tràng. Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Trịnh, Lê, Vương, Phạm, Nguyễn… ghi nhận rằng, tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Theo truyền thuyết và gia phả một số dòng họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này đã được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm nằm dày đặc ở nhiều nơi trong vùng.

Nằm bên bờ sông Hồng, lại gần kinh thành, Bát Tràng có vị trí địa lí và điều kiện giao thông thuận lợi để phát triển nghề thủ công này. Điều đặc biệt nhất có lẽ bởi vùng này được thiên nhiên phú cho nguồn đất sét trắng, vốn là thứ nguyên liệu tối quan trọng để sản xuất đồ gốm. Nghề gốm Bát Tràng đạt đến độ hưng thịnh ở thế kỉ XV khi được triều đình chọn để cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh và tiếp tục phát đạt ở thế kỉ XVI với những sản phẩm cao cấp đáp ứng đòi hỏi của tầng lớp quý tộc và nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.

Gốm sứ Bát Tràng có phong cách riêng bởi sự nổi trội của 5 dòng men khác nhau là men nâu, men lam, men trắng ngà, men xanh rêu và men rạn. Đặc biệt, men xanh rêu kết hợp với men trắng ngà và nâu tạo ra một dòng “tam thái” rất riêng của gốm sứ truyền thống Bát Tràng. Chất liệu chính của sứ Bát Tràng là đất cao lanh có sức chịu nhiệt cao (13000C), và chính nhờ điều đó nên sản phẩm Bát Tràng rất bền và chắc.

Tuy đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu mã nhưng về cơ bản gốm Bát Tràng có thể chia thành hai nhóm chính: Đồ gốm gia dụng và đồ gốm mĩ nghệ. Dù là nhóm sản phẩm nào cũng đòi hỏi trình độ kĩ thuật và tay nghề rất cao. Hình thức trang trí trên gốm Bát Tràng thời gian đầu bao gồm các kiểu như khắc chìm, tô men nâu theo kĩ thuật gốm hoa nâu thời

Nguồn gốc nghệ Thuật trên Quạt.

Thời cổ đại, quạt còn được gọi là “Diêu phong” (mang nghĩa “gió đong đưa”) và “Lương hữu” (nghĩa “những người bạn mát lành”). Từ cái tên cũng đã thấy được tác dụng thuở ban đầu của quạt, đó đem lại cơn gió mát lành giúp làm mát cơ thể.

Từ triều đại Tây Hán (202 TCN-9 CN) đến thời Ngụy, Tấn (khoảng năm 220), quạt tròn là hình ảnh đại biểu cho sự đoàn tụ sum vầy, những cô nương tính tình dịu dàng, ôn nhu rất ưa thích lựa chọn sử dụng, vừa có thể làm mát, lại vừa là một món phục trang, mà còn bởi nó là biểu tượng cho tình yêu thuần khiết.

Đến thời Tam quốc diễn nghĩa, Gia Cát Lượng không rời tay chiếc quạt lông vũ, tương truyền, đó là kỷ vật được phu nhân của mình tặng. Ông luôn mang nó theo mình, vừa như để trân trọng tấm lòng của người vợ, vừa như để tự nhắc mình: đại trượng phu làm việc lớn phải biết tiết chế, làm chủ cảm xúc.

Bởi vậy, người ngoài nhìn ông, chỉ luôn thấy thần thái thong dong, an tĩnh của ông. Do đó, người đời sau, coi quạt lông vũ làm biểu tượng của trí tuệ.

Quạt là một món đồ rất thiết thực. Nó vừa nhẹ, mỏng lại to, không chỉ có thể quạt gió lấy mát, mà còn được đem vào biến thành một loại hình nghệ thuật. Trung Hoa cổ đại có truyền thống biến những thứ đồ dùng hằng ngày trở thành món đồ trang trí, do đó, cán quạt thì được chọn để điêu khắc, mặt quạt thì được làm thơ họa tranh, vừa thể hiện tính thẩm mỹ người dùng, vừa mang lại “cảnh đẹp ý vui”.

Ban đầu, việc chạm khắc và vẽ tranh là do những người thợ thủ công bình thường hoàn thành. Dần dần, nhiều nghệ thuật gia khác cũng đến tham gia, biến quạt không còn chỉ đơn thuần là một cái quạt thông thường nữa, mà nó đã phát triển trở thành một tác phẩm nghệ thuật.

Tại Trung Quốc, quạt rất đa dạng về chủng loại, hình dáng. Các thợ mộc dụng tâm, dày công điêu, khắc v.v. còn các danh nhân thì múa bút đề thơ, vẽ tranh, biến cây quạt trở thành tác phẩm nghệ thuật có giá trị gấp lên hàng trăm lần.

Trong số đó, nổi tiếng nhất phải kể đến quạt gỗ đàn hương (Giang Tô), quạt lửa (Quảng Đông), quạt lụa tre (Tứ Xuyên) và quạt lụa (Chiết Giang), được mệnh danh là “Tứ đại danh phiến” (“phiến” có nghĩa là “quạt”).

Chúng ta cùng đi tìm hiểu về một số loại quạt nổi tiếng.

Quạt lông vũ

Cán quạt lông thường được chọn tre và gỗ để dùng, còn xa hoa hơn thì có thể dùng xương động vật, ngọc bích hoặc ngà voi làm tay cầm. Ở đuôi quạt, có thể treo lên dải sợi tơ tằm, hoặc có thể là tấm ngọc bội có tác dụng làm đẹp, trang trí.

Người ta thường chọn lông chim công, lông ngỗng, lông chim trĩ v.v. để làm quạt, vừa là vật trang trí có tính thẩm mỹ cao, vừa góp phần mang thiên khí cho gia chủ, tăng sức mạnh luyện khí công và sự màu nhiệm trong cầu nguyện, đó còn là vật trưng bày trong những nghi lễ cung đình Trung Hoa xưa.

Vào thế kỷ XVIII và XIX, Trung Quốc đã gửi sang phương Tây quạt lông vũ với các vật liệu quý hiếm và được chế tạo tinh xảo, bây giờ đang được bảo tồn trong Bảo tàng Boston, Mỹ.

Quạt gấp giấy

Quạt giấy gấp có thể coi là loại phổ biến nhất, thường được sử dụng nhất. Giấy được lựa chọn làm quạt càng phải tinh chế, nan quạt được tạo thành từ loại gỗ dài và mỏng, sau đó đem từng miếng ghép lên nhau, được chạm khắc rất tinh xảo, dụng tâm và đa dạng; kết hợp với khảm trai, thiếp vàng, thiếp bạc, sơn mài v.v.

Mặt quạt được trang trí vô cùng tinh tế, sử dụng loại giấy trắng có mùi hương, xa hoa hơn, càng tinh xảo hơn thì còn dùng cả lá vàng mỏng làm vật liệu. Nội dung càng phong phú hơn nữa, có đề thơ, có tranh thư pháp, có họa tranh, tranh sơn thủy, chim muông, vạn sự vạn vật đều in chiếu lên mặt quạt, mang đến hương vị tao nhã.

Dưới nhà Thanh, quạt giấy gấp phát triển mạnh mẽ, vượt trội nhất.

Quạt ngà

Ngà voi, cũng chính là răng cửa của voi, bề ngoài của nó không có men răng bao bọc, rất kị axit. Vì thế mà những người thợ chế tác thường ngâm ngà voi vào giấm chua trước khi gia công, khiến ngà voi trở nên mềm hơn, thuận tiện cho việc dùng dao hay các dụng cụ điêu khắc mà chạm khắc.

Đây là một vật liệu rất có giá trị để làm nên một chiếc quạt. Chạm trên ngà voi vào thời nhà Thanh phát triển vượt bậc, ngà voi không chỉ được chế tạo thành khung quạt mà còn được sử dụng để tạo thành một chiếc quạt hoàn chỉnh.


Quạt đàn hương

Quạt gỗ đàn hương được tạo ra từ vật liệu chính là gỗ đàn hương. Đó là loại gỗ nặng, mịn và là loại gỗ đắt thứ hai trên thế giới, sau gỗ đen Châu Phi.

Loại quạt này, thông thường người thợ sẽ chọn loại gỗ bạch đàn nếu quạt yêu cầu màu trắng, sáng. Còn nếu là loại quạt màu tím thì sẽ chọn loại gỗ tử đàn để sử dụng. Nhưng thường thì gỗ bạch đàn hay được lựa chọn sử dụng hơn.
Và đặc biệt hơn, không giống như nhiều loại gỗ thơm khác, gỗ đàn hương có thể giữ được hương thơm của chúng trong thời gian rất rất dài, lên đến vài thập kỷ, do đó khi quạt lên sẽ mang theo một mùi hương dìu dịu, nhẹ mát, rất được ưa thích.

Quạt lụa

Cho đến nay, quạt lụa đã có lịch sử hơn 400 năm. Đúng như cái tên gọi, vật liệu chính là từ tơ tằm hoặc tơ lụa, đã đem đến cho quạt màu sắc ưu nhã mà lắng dịu. 

Quạt tròn làm bằng lụa thì bắt đầu phổ biến từ thời nhà Tống, sau này có thêm các biến thể hình xoan, hình hoa hướng dương, hoa mận… Cán quạt làm từ xương, ngà động vật hoặc bằng tre. Dưới cán có thể có thêm miếng trang trí được khắc tinh xảo, làm bằng ngọc bích.

Điểm đặc biệt của chúng nằm ở chất liệu lụa cao cấp và những chi tiết trang trí được làm thủ công bằng tay rất cầu kỳ, tinh xảo. Để làm nên một chiếc quạt cơ bản, người thợ sẽ trải qua 3 công đoạn: vẽ họa tiết, dệt lụa, và cuối cùng là thêu (nếu cần thiết). Kỹ thuật dệt dành cho những chiếc quạt này được gọi là kỹ thuật dệt Kesi.

Đây là kỹ thuật dành riêng cho những sản phẩm thượng hạng bởi sự nhẹ nhàng của chất liệu và sự tinh tế, phức tạp trong hoa văn. Kỹ thuật này đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao, sự tỉ mỉ, kiên nhẫn.

Cứ mỗi một màu sắc khác nhau thì phải dùng cuộn chỉ khác nhau, phải thay đổi con thoi dệt. Tất cả các quá trình này đều phải làm bằng tay và mỗi ngày chỉ có thể dệt tối đa 2 – 3cm lụa, sẽ mất vài tháng trời để người ta có thể dệt xong 1 tấm lụa dùng phủ lên quạt tay.

Từ trong Trung Quốc, quạt được xuất sang các nước khác bên phương Tây theo Con đường tơ lụa. Vào đầu thế kỷ 16, các tàu từ Bồ Đào Nha xuất hiện ở hải vực của Trung Quốc, giao thương giữa Trung Quốc và châu Âu đã mở ra một viễn cảnh mới.

Hàng hóa Trung Quốc tiếp tục vào châu Âu và dần dần tạo thành một “cơn sốt Trung Quốc” ở châu Âu, làm cho cả thế giới kinh ngạc với sự phát triển nghệ thuật vượt bậc ở Trung Hoa cổ.

Vì để thuận theo thẩm mỹ của người phương Tây, chiếc quạt cũng từ đó mà mang dáng dấp đặc điểm của văn hóa phương Tây. Hai nét đặc trưng Đông – Tây được hòa vào nhau, tạo nên một phong cách đặc sắc.

QUẠT GIẤY NHẬT BẢN

Quạt xếp và quạt tròn là những dụng cụ quạt tay không chỉ để làm mát mà còn là một vật không thể thiếu trong truyền thống thời trang tại Nhật Bản.

Bạn có biết quạt tại Nhật được bắt nguồn từ đâu và nó mang ý nghĩa gì không, hãy cùng tìm hiểu qua bài viết này nhé:

Nguồn gốc quạt giấy Nhật Bản

Quạt giấy Nhật ra đời vào đầu thời kì Heian. Khi mới bắt đầu nó được sử dụng bằng cách xếp thành từng tập về một phía để mang theo bên mình. Đó gọi là Hiougi. 

Vào thời này, quạt giấy được sử dụng như một vật dụng chủ yếu đi kèm với trang phục của các quý tộc, chủ yếu dùng cho nam, nhưng khi những chiếc quạt đó được trang trí bằng các bức tranh rất đẹp thì nó rất được nữ giới yêu chuộng.

Thời đại Kamakura, quạt giấy Nhật Bản chỉ được sử dụng cho giới quý tộc tuy nhiên sang thời Muromachi nó được phổ biến tới toàn thể nhân dân đặc biệt sử dụng nhiều trong trà đạo, kịch múa Noh.

 Quạt giấy Nhật Bản có nhiều loại: 

Đến thời điểm này thì có 2 loại quạt phổ biến nhất tại Nhật Bản là quạt xếp và quạt tròn. Quạt tròn xác định có nguồn gốc từ Trung Quốc du nhập tuy nhiên thì Nhật Bản đã cách tân để phù hợp với văn hóa đất nước này. Tại Nhật Bản quạt xếp và quạt tròn. Quạt tròn xác định có nguồn gốc từ Trung Quốc du nhập tuy nhiên Nhật Bản đã cách tân để phù hợp với văn hóa đất nước này.

Mục đích sử dụng cả 2 thì giống nhau, nhưng hình dạng khác nhau nhiều.

– Quạt xếp sử dụng khung tre gỗ mỏng, và dán giấy bên ngoài. Khi không dùng thì gấp lại, vì nó dạng hình trụ dài khoảng 20cm nhỏ gọn, nên dễ mang theo bên người. Ngày nay nó cũng được cải tiến làm những nguyên liệu khác như làm bằng nhựa, bằng vải,…

– Quạt tròn thì hình dạng khác với quạt xếp, nó có phần trên hình tròn, và gắn tay cầm phía dưới. Quạt loại này thì không thể gấp lại được.

Quạt này trong mùa hè hay được dán quảng cáo, và được nhiều doanh nghiệp phát miễn phí cho khách đi đường, ngoài ra cũng có thể mua trong tiệm.

Quạt Nhật Bản được sử dụng như thế nào?

Không chỉ đơn thuần tạo ra sự mát mẻ mà quạt giấy còn được sử dụng như một sản phẩm đi kèm  khi mặc các trang phục kiểu Nhật . Điều thú vị của chiếc quạt Uchiwa là nó là một sản phẩm được làm bằng tay từ A-Z, bao gồm thân làm từ tre và đầu quạt được làm từ vải hoặc giấy có trang trí…

Quạt Nhật Bản có nhiều loại khác nhau và tùy theo cách sử dụng của mỗi người, quạt có một công dụng nhất định. Nếu quạt được sử dụng trong bốn nghi thức cổ quan trọng khác nhau  thì cũng có những trang phục kiểu Nhật khác nhau như áo mặc khi thăm hỏi hay áo trong các nghi lễ.

Cấu tạo của quạt giấy Nhật Bản

Một chiếc quạt Nhạt được làm bằng gỗ hoặc tre với chiều dài là 30cm, phần nan quạt được làm từ loại tre vót rất mảnh và có tính đàn hồi chứ không dễ gãy như một số loại quạt giấy mà chúng ta hay sử dụng.

 
 Người ta sử dụng giấy washi để tạo nên phần đầu quạt truyền thống, tuy nhiên hiện nay họ còn cách tân bằng các loại vải cotton hoa văn phong phú như hình chuồn chuồn, chuông gió, bông lúa, cỏ lau, hoa bìm bìm…Chúng đều là những hình ảnh thân quen của mùa hạ không chỉ của Nhật Bản mà còn ở các nước nhiệt đới trên thế giới.

Cách làm quạt giấy Nhật Bản

Một số người dân ở Kyoto khi làm quạt thường sử dụng chất liệu là gỗ, trong khi những người khác lại thực hiện bằng những miếng tre nẹp hoặc bằng giấy hoặc lụa. Nói chung, để làm ra được những chiếc quạt độc đáo, họ phải mất khá nhiều thời gian. Một số quy trình chính được mô tả dưới đây.





Chỉ có thể là Nhật Bản! Những cụ già hơn 80 tuổi vẫn ra ngoài làm việc

Tính cách chăm chỉ cộng với dân số ngày càng già hoá là lý do khiến rất nhiều người Nhật Bản vẫn làm việc cặm cụi ngay cả khi đến tuổi “thất thập cổ lai hy”.

Ông Hiroshi Suzuki đã có sự nghiệp viên mãn, đi khắp thế giới với nghề kỹ sư. Ở tuổi 65, ông về hưu. Song giai đoạn này chẳng kéo dài lâu. Bảy năm qua, ông Suzuki, năm nay 72 tuổi, làm phụ tá điều dưỡng tại khu vực thủ đô Tokyo của Nhật Bản. Ông chia sẻ mình còn lâu mới về hưu.

Nhật Bản có tỷ lệ người cao tuổi làm việc cao nhất trong số các nước phát triển
Các nhà kinh tế cho biết nếu nước Nhật muốn giảm thực trạng thiếu hụt lao động ngày càng tệ hơn, họ cần rất nhiều người như ông Suzuki – những người không như số đông khi vẫn đi làm ở tuổi U70.

Dù Nhật Bản tự hào với dân số già nhất thế giới, họ vẫn gặp vấn đề trong chuyện tuyển dụng người cao niên còn sức khỏe. Lý do là vì chính sách doanh nghiệp, văn hóa làm việc và các quy tắc cứng nhắc không ủng hộ người lao động lớn tuổi. Vấn đề của Nhật là câu chuyện cảnh báo với những nền kinh tế đang lão hóa ở châu Âu và cả nước Mỹ.

“Người già trong độ tuổi 70 vẫn có thể làm việc. Hiện giờ, có nhiều việc bạn có thể làm, miễn là bạn khỏe mạnh. Không cần nghĩ đến chuyện về hưu cho đến khi bạn 80 tuổi”, người phụ tá điều dưỡng Suzukia ở nhà điều dưỡng do hãng Care 21 quản lý nói. Đây là một trong số ít doanh nghiệp Nhật Bản không đặt ra độ tuổi về hưu bắt buộc.

Ông Suzuki là cá nhân trong nhóm người từ 65 tuổi trở lên chiếm hơn 1/4 dân số Nhật. Với tuổi thọ cao nhất thế giới, đến năm 2050 phụ nữ Nhật trung bình sẽ sống qua 90 tuổi, và với tỷ lệ sinh thấp, số dân trong độ tuổi lao động Nhật Bản đang bị thu hẹp.

Thực tế nhân khẩu học Nhật Bản nghiêm trọng đến nỗi dù nước này có tỷ lệ người cao tuổi làm việc lớn nhất trong các quốc gia phát triển, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), yếu tố này không đủ để ngăn chặn sự thiếu hụt lao động. Số người lao động trên 65 tuổi lên mức 7,3 triệu người năm 2015, hay 21,7% số người trong độ tuổi này, theo số liệu từ Cục.

Thực trạng thiếu hụt lao động của quốc gia Đông Á cũng ngày càng tồi tệ. Số lao động được cho là sẽ giảm còn 56 triệu người vào năm 2030, từ mức 64 triệu người năm 2014. Dự báo này do Viện Chính sách và Đào tạo Lao động Nhật Bản công bố, giả định các điều kiện kinh tế và tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động không đổi.

Để tránh thiếu hụt lao động, nước Nhật cần áp dụng nhiều chính sách sáng tạo hơn để thu hút người cao tuổi vào lực lượng đi làm. Tuy nhiên, cơ cấu doanh nghiệp Nhật vẫn hạn chế sự phổ biến của các nhân viên lớn tuổi, dù nước này không có tuổi về hưu chính thức.
“Người Nhật khỏe mạnh, sống lâu và luật pháp, chính sách doanh nghiệp không bắt kịp trong việc tận dụng tuổi thọ cao của họ. 60 tuổi là vẫn còn rất, rất trẻ ở Nhật. Nếu muốn giải quyết vấn đề này, takhông thể chỉ giúp người lao động làm việc lâu hơn, ta phải suy tính lại cả hệ thống nhân sự của Nhật”- giáo sư trợ giảng Florian Kohlbacher tại Đại học Temple ở Tokyo cho hay.

It could only be Japan! Older people over 80 years old still go out to work

The hardworking character combined with an aging population is the reason why many Japanese people still work hard even at the age of “lost”.

Hiroshi Suzuki has a fulfilling career, traveling the world as an engineer. At age 65, he retired. But this period did not last long. For the past seven years, Mr. Suzuki, 72 years old, has been working as a nursing assistant in the Tokyo metropolitan area of ​​Japan. He shared that he was far from retiring.

Japan has the highest percentage of elderly working among developed countries
Economists say if Japan wants to reduce the worsening labor shortage, it needs a lot of people like Mr. Suzuki – who are not like the majority when they are still working at the age of U70.

Although Japan boasts the world’s oldest population, it still has problems hiring healthy seniors. The reason is because corporate policy, working culture and rigid rules do not support older workers. The problem for Japan is a warning story for aging economies in Europe and the United States.

“Older people in their 70s can still work. Now, there are many things you can do, as long as you are healthy. There is no need to think about retirement until you are 80 years old, ”said Suzukia nursing assistant at a nursing home run by Care 21. This is one of the few Japanese enterprises that do not set the mandatory retirement age.

Mr. Suzuki is an individual in the group of people aged 65 and over accounting for more than a quarter of the Japanese population. With the world’s highest life expectancy, by 2050 the average Japanese woman will live past 90, and with a low birth rate, the working-age population in Japan is shrinking.

Japan’s demographic reality is so serious that even though it has the highest proportion of seniors working in developed countries, according to the Organization for Economic Co-operation and Development (OECD), this factor is not enough. to prevent labor shortages. The number of workers over 65 years old rose to 7.3 million in 2015, or 21.7% of people in this age group, according to data from the Bureau. The East Asian nation’s labor shortage is also worsening. The number of employees is expected to decline to 56 million by 2030, from 64 million in 2014. This prediction is published by the Japanese Institute of Labor Policy and Training, assuming economic conditions and constant participation rate in the labor force.

To avoid labor shortages, Japan needs to apply more creative policies to attract the elderly to the work force. However, the structure of Japanese businesses still limits the popularity of older employees, even though the country has no formal retirement age.
“Japanese people are healthy, live long, and their corporate laws and policies do not keep up with their longevity. 60 years old is still very, very young in Japan. If you want to solve this problem, you can not only help workers work longer, you have to rethink the Japanese human resource system, ”assistant professor Florian Kohlbacher at Temple University in Tokyo.

How to buy movie tickets in Japan?

Going to the movies is an indispensable activity for those who love watching movies. In Japan, many international students also love watching movies.

However, movie tickets in Japan are quite expensive. Except for the selling price of JPY 1,100 on special days, such as Lady’s Day (Wednesday) and Day 1 (the first day of the month), another way to buy cheap movie tickets is to buy a preview ticket.

How to buy a movie ticket in advance

Advance movie tickets in Japan are distributed by Movie Ticket Sales (ム ビ チ ケ: https: //movieticket.jp/) for about 1,400 JPY. This is not a specific seat or cinema. You can buy it by following the steps below.

Buy tickets online

Buy movie tickets online via this website: https://mvtk.jp/ and you will receive a purchase number.
Bring your purchase number to make a reservation and pick up your ticket at the ticket counter or ticket machine.

Ticket counter

You will receive a special promotion when you buy tickets at the counter if you have a priority card. Not only has a special movie ticket with impressive design, but you can also get some free gifts.
Movie tickets are available at https://movieticket.jp/Guide/Mvtkcard/lineup

Convenience store

In Japan, you can also buy a preview ticket at the checkout counter of convenience stores. The purchase code will be received on the invoice and you can check the status of your ticket purchase at https://movieticket.jp/Guide/Cvs/lineup

 
Also, if you want to search for a movie theater near your home, you can watch it at https://movieticket.jp/SupportedTheaters before buying.

Mua vé xem phim tại Nhật


Đi xem phim là một hoạt động không thể thiếu cho những ai yêu thích xem phim. Tại Nhật, nhiều sinh viên quốc tế cũng rất thích xem phim.

Tuy nhiên, vé xem phim ở Nhật khá đắt. Ngoại trừ giá bán là 1.100 JPY vào các ngày đặc biệt, chẳng hạn như Ngày Lady (thứ tư) và Ngày thứ nhất (ngày đầu tiên của tháng), một cách khác để mua vé xem phim giá rẻ là mua vé xem trước.

Có một số cách mua vé xem trước

Vé xem phim trước tại Nhật Bản được phân phối bởi Bộ phận bán vé Phim (ム ビ チ ケ: https: //movieticket.jp/) với giá khoảng 1.400 JPY. Đây không phải là chỗ ngồi hoặc rạp chiếu phim cụ thể. Bạn có thể mua bằng cách làm theo các bước dưới đây.

Mua vé trên mạng

Mua vé xem phim trực tuyến qua trang web này: https://mvtk.jp/ và bạn sẽ nhận được số mua hàng. Đem theo số mua hàng để đặt chỗ và lấy vé tại quầy bán vé hoặc máy bán vé.

Quầy bán vé

Bạn sẽ nhận được khuyến mãi đặc biệt khi mua vé tại quầy nếu bạn có thẻ ưu tiên. Không chỉ có một vé xem phim đặc biệt với thiết kế ấn tượng, nhưng bạn cũng có thể nhận được một số quà tặng miễn phí. Có sẵn vé xem phim tại https://movieticket.jp/Guide/Mvtkcard/lineup

Cửa hàng tiện lợi

Tại Nhật, bạn cũng có thể mua vé xem trước tại quầy tính tiền của các cửa hàng tiện lợi. Mã số mua hàng sẽ được nhận trên hóa đơn và bạn có thể kiểm tra tình trạng mua vé của bạn tại https://movieticket.jp/Guide/Cvs/lineup

Ngoài ra, nếu bạn muốn tìm kiếm rạp chiếu phim gần nhà bạn, bạn có thể xem tại https://movieticket.jp/SupportedTheaters trước khi mua hàng.

Learn about religions in Japan

In Japan, in addition to Buddhism, many other religions coexist. So the size, the influence of these religions on the cultural and social life of the Japanese like?

Buddhism

The highest Buddha in the world It can be said that Japan is one of the most complex countries in the world in terms of religion. At the same time, there are also customs and practices of different origins and religious styles. Japanese people go to the Shinto (New Shinto) temples in the new year, visit Buddhist temples in the spring but organize parties and give each other gifts at Christmas in a Christian way. Weddings are usually held according to the ritual of Shinto or Catholic. But funeral procedures surrender according to Buddhist rituals. There are those who follow one or two religions at a time, so in 1995 according to the statistics of the cultural yearbook of religious associations, the followers of all the sects combined were 219.83 million, nearly The Japanese population at that time was 120 million.
Yet in Japan today Buddhism dominates over other religions, with about 92 million believers, although in reality these believers also do not strictly follow the rules of Buddhism.

Catholic

Christianity is also quite popular with about 1.7 million parishioners. Christianity introduced to Japan in 1549 developed rapidly in the second half of that century, when there were many conflicts, instability in the country and was welcomed by those in need of a new spiritual symbol, as well as those hoping to get rich in business or hoping to acquire new industries, especially Western weapons industry. Christians now consist of Protestants and Christians, but the Protestants are outnumbered. Protestants celebrated their 100th anniversary of religion in Japan in 1959.

Muslim

Among other religions, Islam has about 155,000 followers, including foreigners who temporarily reside in Japan.

Shinto (“the way of the gods”)

The original Japanese religion is Shinto (Shinto). Shinto originated from animism of ancient Japanese people. Shinto said that plants and animals in nature have demons, so they must be worshiped. Developed as a community religion, Shinto has produced local shrines and patron shrines. In addition, the Japanese also worship the heroes and outstanding leaders of the people through different generations and worship their ancestor’s souls according to the rite of the god.

Shushi-Gaku – Confucianism

The Japanese also attached great importance to Confucianism, but in fact, Confucianism for Japanese people was more of a moral standard than a religion. from the Japanese way of thinking and manners, later the influence of this religion also weakened.